0236.3650403 (128)

YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM


NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ TIẾN

BÀI 1

YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

             Thị trường chứng khoán phát triển gắn liền với nhu cầu và khả năng của nền kinh tế và cơ chế kinh tế. Thị trường chứng khoán sẽ đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt nam hiện nay, một vấn đề được xem là cần thiết hơn bao giờ hết. Nhưng hiện nay nền kinh tế và cơ chế kinh tế tài chính Việt nam còn cần phải giải quyết nhiều vấn đề để tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả.

             Một thị trường chứng khoán có thể được tổ chức dễ dàng, tuy nhiên duy trì được nó hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển thì rất khó khăn. Một thị trường chứng khoán chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được hoạt động trong một môi trường kinh tế, tài chính lành mạnh. Nghĩa là phải có một hệ thống hạ tầng cơ sở phù hợp từ những nội dung thuộc về yếu tố chủ quan và khách quan của thị trường chứng khoán.

I. Cơ chế kinh tế tài chính:

            Đây là yếu tố nền tảng, bảo đảm cho khả năng có chứng khoán lưu thông trên thị trường. Yếu tố kinh tế- tài chính được hình thành bởi các chính sách kinh tế- tài chính của Nhà nước.

1. Về kinh tế:

            Với đường lối đổi mới của Việt nam là phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, 10 năm qua Việt nam đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu thành phần kinh tế và loại hình tổ chức kinh doanh.

            -  Khu vực kinh tế nhà nước, các công ty được giao vốn, trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm bảo toàn vốn và kinh doanh có lãi. Các doanh nghiệp nhà nước, qua một giai đoạn tổ chức sắp xếp lại, đã bị giải tán hoặc sáp nhập những doanh nghiệp thua lỗ không có khả năng phát triển, đồng thời thực hiện chương trình cổ phần hoá. Để có sự hỗ trợ về kỹ thuật điều hoà vốn và phân bố hợp lý thị trường (kể cả thị trường trong nước và xuất khẩu), Chính phủ đã thành lập một số tổng công ty (tổng công ty lương thực, Tổng công ty xi măng, Tổng công ty thép, Tổng công ty xây dựng, tổng công ty than...)Trực thuộc Tổng công ty là các công ty hạch toán kinh tế độc lập. Tổ chức nội bộ tổng công ty có cơ cấu và mục đích tương tự như các tập đoàn kinh tế ngành. Kết quả của các chính sách kinh tế trong khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian qua đã khắc phục được một phần tình trạng bù lỗ của ngân sách. Ngân sách không còn bù lỗ tràn lan cho các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp từ chỗ thua lỗ hoặc hoà vốn đã chuyển sang có lãi, có tích luỹ nội bộ và nộp ngân sách nhà nước.

            - Khu vực kinh tế tư nhân, có ba hình thức tổ chức: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.

            Doanh nghiệp tư nhân, còn gọi là doanh nghiệp cá thể, do một người làm chủ, đồng thời là người điều hành công ty. Doanh nghiệp tư nhân là loại công ty trách nhiệm vô hạn. Nghĩa là người chủ được hưởng toàn bộ lợi nhuận khi doanh nghiệp có lãi, đồng thời người chủ cũng phải chịu hết mọi rủi ro khi kinh doanh thất bại,  khi thua lỗ tài sản phải thanh lý để trả nợ không phải chỉ là số tài sản của người chủ đã đưa vào kinh doanh, mà cả tài sản của gia đình.

            Công ty trách nhiệm hữu hạn, là loại doanh nghiệp hợp doanh, tức là loại công ty có hai hay nhiều người cùng hùn vốn cùng làm chủ và quản trị công ty. Trong trường hợp có một thành viên muốn rời bỏ công ty, họ phải tìm một người khác thay thế và phải được các thành viên khác chấp thuận. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Lợi nhuận được phân bổ cho các thành viên theo tỷ lệ chung vốn. Trong trường hợp thua lỗ cũng được xử lý tương tự.

            Công ty cổ phần là một pháp nhân tồn tại độc lập với những sở hữu chủ. Cơ cấu vốn của công ty cổ phần được thực hiện theo phương thức chia nhỏ vốn thành những phần bằng nhau gọi là vốn cổ phần. Người đầu tư thực hiện việc đầu tư bằng hình thức mua cổ phần. Người có cổ phần gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua ít hoặc nhiều cổ phần theo khả năng. Cổ đông thực hiện quyền quản trị và kiểm soát công ty thông qua việc hoạch định các chính sách, bầu cử và ứng cử vào cơ quan quản lý, kiểm soát và điều hành công ty. Quyền kiểm soát và quản trị công ty của cổ đông được phân chia theo mức độ góp vốn. Cổ đông chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong giới hạn số vốn cổ phần của mình. Họ không bị đụng chạm đến tài sản của gia đình khi công ty thua lỗ. Sự rủi ro của sở hữu chủ chỉ là giới hạn.

             Cơ cấu công ty cổ phần có Đại hội cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất thực hiện quyền hoạch định chính sách, ban hành điều lệ, bầu Hội đồng quản trị, bầu chủ tịch,Phó chủ tịch hội đồng quản trị, và cử ban điều hành.

            So với khu vực kinh tế nhà nước, vốn bình quân một đơn vị trong khu vực kinh tế tư nhân thấp, đặc biệt công ty cổ phần vốn bình quân chỉ có 10 tỷ đồng, trong khi với công cụ cổ phiếu khả năng tăng vốn là rất lớn. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh kinh tế tư nhân tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần là động lực chính thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và xã hội hoá hoạt động kinh tế.

            - Trong khu vực kinh tế của người nước ngoài, hoặc có sự tham gia của người nước ngoài. Theo luật đầu tư hiện hành Việt Nam có ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.

            Hợp đồng hợp tác kinh doanh, được thực hiện dưới dạng một hợp đồng được ký bởi một hay nhiều bên của Việt Nam với một hay nhiều bên nước ngoài nhằm mục đích cùng tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở phân chia trách nhiệm và lợi nhuận giữa hai bên. Hình thức này không tạo ra một pháp nhân kinh doanh độc lập. Nó được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò dầu khí giữa Petrol Việt Nam với các công ty dầu khí nước ngoài.

            Xí nghiệp liên doanh, đó là một pháp nhân độc lập, được thành lập theo luật Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của luật Việt Nam. Là một liên doanh được thiết lập dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn. Tức là bên này chỉ chịu trách nhiệm với bên kia hoặc bên thứ ba hoặc trước pháp luật trong phạm vi số vốn đóng góp.

            Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, là xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là một pháp nhân Việt Nam và là công ty trách nhiệm hữu hạn.  Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài nghĩa là toàn bộ vốn điều lệ (vốn ban đầu) là của người nước ngoài đưa vào. Trong quá trình hoạt động nhu cầu vốn tăng lên xí nghiệp có thể huy động vốn vay, nhưng vốn điều lệ không dưới 30% vốn hoạt động.

2. Về tài chính:

            Xem xét hệ thống tài chính của Việt Nam trước hết phải đi từ hệ thống ngân hàng.

- Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan duy nhất phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước có mạng lưới các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố.

            Tuy vẫn là một cơ quan của Chính phủ, nhưng đến nay, tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước đã được củng cố một cách có ý nghĩa. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là người quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách tiền tệ và vai trò kiểm soát, quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước.  Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành chính sách và ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ấn định mức khống chế lãi suất tín dụng, hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại, ấn định tỷ giá hối đoái chính thức, lãi suất chiết khấu.

            - Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, quỹ tín dụng và công ty tài chính, là những tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động chủ yếu và thường xuyên, nhận tiền gửi của khách hàng và cho vay tín dụng, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.

Về hoạt động đang từng bước được mở rộng và đa năng hoá, đa dạng hoá nghiệp vụ: tín dụng, chiết khấu giấy tờ có giá, đầu tư qua hùn vốn liên doanh hoặc mua cổ phiếu, dịch vụ cầm đồ, tài trợ bán hàng trả góp, tín dụng thuê mua...

            Về cơ cấu vốn cho vay đã có sự thay đổi tích cực. Tỷ trọng vốn cho vay trung và dài hạn, và cho vay khu vực kinh tế tư nhân tuy còn rất nhỏ nhưng xu hướng ngày càng gia tăng. Hiệu quả tín dụng đã được nâng lên rõ rệt, tình trạng nợ quá hạn đã giảm đáng kể. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính Việt Nam hiện vẫn còn những tồn tại khá lớn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển một thị trường tài chính nói chung, thị trường vốn nói riêng.    

II. Hệ thống pháp lý

            Nếu như yếu tố kinh tế là nền tảng của thị trường chứng khoán, thì yếu tố pháp lý sẽ là công cụ duy trì cho thị trường chứng khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển.

            Không phải bất cứ doanh nghiệp nào khi có nhu cầu về vốn đầu tư cũng có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, và đưa các loại chứng khoán đó vào giao dịch trong một thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán). Muốn được phát hành chứng khoán ra công chúng, và đưa chứng khoán đó vào giao dịch tại một Sở giao dịch chứng khoán, đơn vị phải hội đủ những điều kiện tiêu chuẩn theo luật định, và phải được một cơ quan chuyên môn có thẩm quyền của Nhà nước cho phép.

            Hoạt động giao dịch, thương lượng, đấu giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán phải đặt trên căn bản lòng tin. Sở hữu chủ chứng khoán được xác nhận trên các căn cứ giấy tờ của các tổ chức môi giới chứng khoán... Do vậy, thị trường chứng khoán đòi hỏi phải có hệ thống luật pháp đầy đủ.

            Quan hệ mua bán chứng khoán là quan hệ vật chất giữa các chủ thể là cá nhân hoặc pháp nhân, do đó đòi hỏi phải có luật dân sự và luật thương mại. Xét về tính chất kinh tế, mua bán chứng khoán là hành động đầu tư, do đó phải có luật đầu tư. Chủ thể phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán là các doanh nghiệp và kho bạc Nhà nước, Chính phủ và chính quyền địa phương. Do đó phải có luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty cổ phần,... Ngoài ra là hệ thống pháp luật về quản lý phát hành, kinh doanh và giao dịch của thị trường chứng khoán.

            Hệ thống luật kinh tế của Việt Nam tuy còn bị đánh giá là non yếu, song trong mấy năm gần đây Quốc hội Việt Nam đã rất quan tâm đến vấn đề này. Một trong những điều kiện pháp lý tiên quyết, quan trọng nhất đối với một thị trường chứng khoán thành công là phải có luật công ty phù hợp với yêu cầu của thị trường chứng khoán. Khi giao dịch chứng khoán trên thị trường thứ cấp, chỉ là giao dịch các giấy chứng nhận cổ phần do các cơ sở quản lý lưu ký chứng khoán cấp. Luật nhiều nước quy định cấp giấy chứng nhận cổ phần khi đã đăng ký tên cổ đông. Ở Việt Nam, vai trò kiểm soát hoạt động kinh tế của Nhà nước đang được chú trọng. Vì vậy rất cần phát hành loại cổ phiếu có ghi tên.

III. Yếu tố tâm lý:

            Tổ chức thị trường chứng khoán trước hết là để động viên mọi nguồn vốn tiết kiệm, để dành trong công chúng, và để thu hút những nguồn vốn to lớn từ nước ngoài vào công cuộc đầu tư. Yếu tố tâm lý đòi hỏi thị trường chứng khoán phải có tính động viên và khả năng thu hút.

            Động viên nguồn vốn trong nước: với cơ chế hiện tại Việt Nam có hệ thống ngân hàng và kho bạc Nhà nước huy động vốn với lãi suất từ 0,9 - 1,2%/tháng, tức là từ 10,8 - 14%/năm. Như vậy có 3 vấn đề lớn đặt ra: bỏ tiền vào thị trường chứng khoán có an toàn không? Đầu tư qua chứng khoán có lãi suất cao hơn gửi tiết kiệm hoặc mua tín phiếu kho bạc không? Và khi cần người có chứng khoán có thể bán nó đi một cách dễ dáng mà vẫn có lãi không?

            Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải căn cứ trên những điều kiện và thủ tục cần thiết, việc kinh doanh chứng khoán phải đặt dưới sự giám sát của Nhà nước. Bất cứ nước nào cũng vậy, luật pháp về phát hành và kinh doanh chứng khoán trước hết là nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Do đó, có thể nói những hành vi lừa đảo trong thị trường chứng khoán sẽ được hạn chế đến mức tối đa, khi có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, và luật pháp đó được thi hành nghiêm minh.

            Quan hệ cung cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Tình hình ổn định chính trị, an ninh, tình hình phát triển của cả nền kinh tế. Nhưng trong đó ảnh hưởng trực tiếp nhất là uy tín trong kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán. Nếu công ty phát hành tốt, có lãi cao, thì chắc chắn loại chứng khoán đó sẽ có người mua, sở hữu chủ có thể bán chứng khoán của mình đi một cách dễ dàng mà vẫn có lãi. Chứng khoán, cổ phiếu cũng như trái phiếu có nhiều loại. Để phù hợp với tâm lý dân chúng, đơn vị phát hành phải biết lựa chọn để phát hành những loại chứng khoán phù hợp ở thời điểm phát hành ra công chúng. Trong tình trạng nền tiền tệ còn lạm phát, người dân chưa yên tâm đầu tư dài hạn với loại cổ phiếu thông thường hoặc trái phiếu có lãi suất cố định, thì cần phải phát hành loại cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu có lãi suất thả nổi. Về nguyên tắc, thị trường chứng khoán là một định chế tài chính thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Vì lý do này, hoạt động của thị trường chứng khoán phải được giám sát bởi một cơ quan quản lý mạnh để đảm bảo sự chính xác, công bằng và đầy đủ trong công khai thông tin về đơn vị phát hành và trong giao dịch. Qua đó, đảm bảo nhà đầu tư có được một thị trường lành mạnh, bình đẳng. Để có thị trường chứng khoán có khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, thị trường chứng khoán đó phải đặt trong một môi trường có chế độ chính trị, kinh tế, tiền tệ ổn định và hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Do đó, vấn đề chính là phải kiểm soát được lạm phát, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và xác định rõ ràng hệ thống chính sách về thị trường chứng khoán, đặc biệt là các chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài để họ thấy được quyền lợi và sự đảm bảo an toàn khi đầu tư vào chứng khoán. Việc này có thể thực hiện bằng cách cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán và có một chính sách thuế thu nhập, thuế đầu tư hợp lý, kiểm soát số lượng một loại chứng khoán cụ thể được nắm giữ bởi một nhà đầu tư nước ngoài một cách tối đa.