Bản chất của ngân sách Nhà Nước
<p>
Nhiều người thường nhầm lẫn giữa "khái niệm" về một sự vật với "bản chất" cuả sự vật đó. Do vậy, trong các sách báo chuyên ngành, hoặc các cuộc hội thảo thường nảy sinh những tranh luận không cần thiết. Hiện tượng này cũng sảy ra đối với Ngân sách nhà nước. Chẳng hạn, khi bàn về bản chất của Ngân sách nhà nước, một số ý kiến trước đây ghi nhận: Ngân sách nhà nước là "kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước", là "quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước", là "bộ phận chủ đạo trong hệ thống tài chính" v.v.</p>
<p>
Cách nhìn nhận như trên về Ngân sách nhà nước là chưa đầy đủ cả về mặt xác định khái niệm và về mặt tìm hiểu nội dung vật chất (bản chất) của Ngân sách nhà nước.</p>
<p>
Khó khăn của quá trình tim hiểu bản chất của sự vật là ở chổ, bản chất không bao giờ tự bộc lộ một cách trực tiếp, mà luôn được biểu hiện thông qua các hiện tượng. Do đó, để tìm hiểu bản chất, chúng ta phải đi từ sự phân tích các hiện tượng. </p>
<p>
Chúng ta thấy rằng các hiện tượng của nó rất đa dạng phong phú song cũng rất rời rạc. Đó là bảng tổng hợp các khoản thu chi của Nhà nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là các khoản cấp phát của Nhà nước cho nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Đó cũng là những khoản đóng góp của mỗi thành viên trong xã hội cho Nhà nước theo nghĩa vụ hoặc tự nguyện và những khoản kinh phí của Nhà nước cấp phát cho mỗi thành viên trong xã hội (tổ chức, cá nhân)</p>
<p>
Tuy nhiên các hoạt động thu chi này không hề mang tính tự phát và không nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước mà ngược lại chúng luôn luôn bị rằng buộc bởi những nội dung bên trong hết sức chặt chẽ. Đó là:</p>
<p>
<em>- </em>Thứ nhất: Các khoản thu Ngân sách nhà nước phần lớn mang tính cưỡng bức (bắt buộc) còn các khoản chi lại mang tính cấp phát (không hoàn lại trực tiếp).</p>
<p>
Đây là một nội dung quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân sách nhà nước. Nội dung này xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và nhu cầu về tài chính để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý điều hành nền kinh tế xã hội.</p>
<p>
Tất nhiên tính chất cưỡng bức không hề mang tính tiêu cực vì đây là sự cần thiết. Mọi đối tượng nộp thuế đều ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Đồng thời họ cũng ý thức được vai trò quan trọng của Nhà nước trong quá trình sử dụng nguồn tài chính nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh tế xã hội đã được giao phó.</p>
<p>
Như vậy, sự tồn tại cũng như vai trò của Nhà nước chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt động của Ngân sách nhà nước.</p>
<p>
<em>- </em>Thứ hai: Mọi hoạt động của Ngân sách nhà nước đều là hoạt động phân phối tài chính, do đó nó thể hiện các mối quan hệ trong phân phối. Đó là quan hệ về kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế xã hội và các tầng lớp nhân dân:</p>
<p>
+ Quan hệ giữa Ngân sách nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dịch vụ: Như doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước, Nhà nước cấp phát kinh phí để phát triển kinh tế cho các doanh nghiệp, tài trợ vốn cho các doanh nghiệp trong một số ngành nếu Nhà nước thấy cần thiết.</p>
<p>
+ Quan hệ giữa Ngân sách nhà nước và các hộ gia đình: Như một số hộ dân cư làm nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước thông qua các khoản thuế, lệ phí, ủng hộ tự nguyện,đồng thời các hộ khác nhận từ Ngân sách nhà nước những khoản trợ cấp xã hội theo chính sách quy định.</p>
<p>
+ Quan hệ giữa Ngân sách nhà nước và thị trường tài chính: Nhà nước tham gia trên thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của Kho bạc nhà nước (tín phiếu, trái phiếu, chứng từ đầu tư...) nhằm huy động vốn của tất cả các chủ thể trong xã hội đáp ứng yêu cầu cân đối của Ngân sách nhà nước hoặc nhà nước tham gia góp vốn cổ phần, hùn vốn hoặc cho các đơn vị kinh tế vay bằng hình thức Nhà nước mua các loại chứng khoán của doanh nghiệp.</p>
<p>
+ Quan hệ giữa Ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính trung gian</p>
<p>
+ Quan hệ giữa Ngân sách nhà nước và các tổ chức xã hội.</p>
<p>
+ Quan hệ giữa Ngân sách nhà nước với hoạt động tài chính đối ngoại.</p>
<p>
Các mối quan hệ tài chính trên thực ra việc phân phối các nguồn tài chính để hình thành nguồn thu của Ngân sách nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa Nhà nước và các thành viên xội với kết quả là các nguồn tài chính được phân chia thành hai phần: phần nộp vào ngân sách và phần để lại cho các thành viên xã hội. Tới lượt mình phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục phân phối lại thể hiện qua các khoản cấp phát từ ngân sách Nhà nước cho mục đích đầu tư và tiêu dùng. Quan hệ tài chính giữa Nhà nước và xã hội do đó tiếp tục thể hiện ở phạm vi rộng lớn hơn.</p>
<p>
Với quyền lực tối cao, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có (kinh tế, hành chính, vũ lực) để bắt buộc mọi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình những nguồn lực tài chính cần thiết. Song, cơ sở để tạo ra các nguồn tài chính chủ yếu là các hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác trong nền kinh tế, mà chủ thể của những hoạt động này chính là các thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích của mình và đấu tranh bảo vệ lợi ích đó. Nghĩa là, Nhà nước không thể dựa vào quyền lực để huy động đóng góp của xã hội với bất kỳ giá nào. Quyền lực đó phải có giới hạn và giới hạn hợp lý nhất chính là giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, một khi Nhà nước chỉ chú ý tới lợi ích kinh tế của mình, chỉ dùng quyền lực để huy đông sự đóng góp nặng nề của xã hội, phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu tuỳ tiện, không chú ý đến lợi ích của xã hội thì quan hệ giữa Nhà nước và xã hội trở nên căng thẳng, nền kinh tế bị suy thoái, đời sống nhân bị bần cùng. Chính vì vậy, việc khẳng định Ngân sách nhà nước thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội có ý nghĩa quan trọng không chỉ đơn thuần về mặt lý luận, mà còn sự cần thiết trong quá trình quản lý và điều hành Ngân sách nhà nước. Nó đòi hỏi chúng ta phải có một chính sách ngân sách đúng đắn, tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan, không được coi thường lợi ích của xã hội để huy động một cách tuỳ tiện các nguồn thu nhập của các thành viên trong xã hội, đồng thời, mọi khoản chi tiêu của Nhà nước phải được tính toán thận trọng, thể hiện tính tiết kiệm, hiệu quả và công bằng xã hội.</p>
<p>
Từ phân tích trên có thể đi đến kết luận: mặc dù các biểu hiện của Ngân sách nhà nước rất đa dạng và phong phú, nhưng về thực chất chúng đều thể hiện các nội dung sau:</p>
<p>
ØNgân sách nhà nước hoạt động trong lĩnh vực phân phối các nguồn tài</p>
<p style="margin-left:6.5pt;">
chính. Vì vậy nó thể hiện các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội.</p>
<p>
ØQuan hệ giữa Ngân sách nhà nước và Quyền lợi về Ngân sách nhà nước thuộc về Nhà nước. Mọi khoản thu chi tài chính của Nhà nước đều do Nhà nước quyết định và nhằm mục đích phục vụ các nhu cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Từ những nội dung trên có thể nêu bản chất của Ngân sách nhà nước như sau:</p>
<p>
Ngân sách nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo các nhu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế xã hội của mình.</p>
<p style="text-align: right;">
<em><strong>ThS. Hoàng Thị Xinh</strong></em></p>