0236.3650403 (128)

KINH TẾ TRI THỨC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TẠI VIỆT NAM


<p> <strong>Kinh tế tri thức l&agrave; g&igrave;</strong></p> <p> Nền kinh tế tri thức, c&ograve;n gọi l&agrave; kinh tế dựa v&agrave;o tri thức (Knowledge - BasedEconomy) l&agrave; nền kinh tế chủ yếu dựa v&agrave;o tri thức, tr&ecirc;n cơ sở ph&aacute;t triển khoa học v&agrave; c&ocirc;ng nghệ cao. &quot;Nền kinh tế tri thức l&agrave; nền kinh tế ng&agrave;y c&agrave;ng phụ thuộc trực tiếp v&agrave;o việc sản xuất ph&acirc;n phối v&agrave; sử dụng tri thức v&agrave; th&ocirc;ng tin&quot; (OECD 1996). &quot;Nền kinh tế tri thức l&agrave; nền kinh tế m&agrave; trong đ&oacute; qu&aacute; tr&igrave;nh sản xuất, ph&acirc;n phối v&agrave; sử dụng tri thức trở th&agrave;nh động lực ch&iacute;nh cho tăng trưởng, cho qu&aacute; tr&igrave;nh tạo ra của cải v&agrave; việc l&agrave;m trong tất cả c&aacute;c ng&agrave;nh kinh tế&quot; (APEC 2000)</p> <p> Cho đến nay c&oacute; nhiều quan niệm kh&aacute;c nhau về kinh tế tri thức (Knowledge economy). Theo c&aacute;ch hiểu chung nhất, kinh tế tri thức l&agrave; nền kinh tế m&agrave; trong đ&oacute; việc s&aacute;ng tạo v&agrave; ứng dụng tri thức đ&oacute;ng vai tr&ograve; quyết định trong việc sản xuất ra của cải vật chất.</p> <p> C&ograve;n theo Bộ Thương mại v&agrave; C&ocirc;ng nghiệp Anh: Kinh tế tri thức l&agrave; nền kinh tế m&agrave; việc sản sinh ra v&agrave; khai th&aacute;c tri thức c&oacute; vai tr&ograve; nổi trội trong qu&aacute; tr&igrave;nh tạo ra của cải.</p> <p> Theo GS.VS Đặng Hữu: Kinh tế tri thức l&agrave; nền kinh tế trong đ&oacute; sự sản sinh ra, phổ cập v&agrave; sử dụng tri thức giữ vai tr&ograve; quyết định nhất đối với sự ph&aacute;t triển kinh tế, tạo ra của cải, n&acirc;ng cao chất lượng cuộc sống.</p> <p> <strong>Đặc trưng của nền kinh tế tri thức</strong></p> <p> D&ugrave; c&oacute; nhiều c&aacute;ch hiểu kh&aacute;c nhau, song c&oacute; thể thấy, nền kinh tế tri thức c&oacute; những đặc trưng cơ bản sau:</p> <p> <strong>1.</strong>&nbsp;Tri thức đ&atilde; trở th&agrave;nh lực lượng sản xuất trực tiếp, l&agrave; vốn qu&yacute; nhất, l&agrave; nguồn lực quan trọng h&agrave;ng đầu quyết định sự tăng trưởng v&agrave; ph&aacute;t triển kinh tế.</p> <p> <strong>2.</strong>&nbsp;Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức v&agrave; phương thức hoạt động kinh tế c&oacute; những biến đổi s&acirc;u sắc, nhanh ch&oacute;ng, trong đ&oacute; cơ cấu sản xuất dựa ng&agrave;y c&agrave;ng nhiều v&agrave;o việc ứng dụng c&aacute;c th&agrave;nh tựu của khoa học c&ocirc;ng nghệ, đặc biệt l&agrave; c&ocirc;ng nghệ cao.</p> <p> <strong>3.</strong>&nbsp;Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức c&oacute; những biến đổi so với nền kinh tế tri thức trước đ&oacute;: Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%), nguồn nh&acirc;n lực nhanh ch&oacute;ng được tri thức h&oacute;a, sự s&aacute;ng tạo, đổi mới, học tập trở th&agrave;nh nhu cầu thường xuy&ecirc;n đối với mọi người.</p> <p> <strong>4.</strong>&nbsp;Trong nền kinh tế tri thức, h&agrave;m lượng tri thức trong sản phẩm ng&agrave;y c&agrave;ng cao, quyền sở hữu đối với tri thức trở n&ecirc;n quan trọng hơn những yếu tố như t&agrave;i nguy&ecirc;n, đất đai.</p> <p> <strong>5.</strong>&nbsp;Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều li&ecirc;n quan đến vấn đề to&agrave;n cầu h&oacute;a, c&oacute; t&aacute;c động s&acirc;u sắc đến nhiều mặt của đời sống x&atilde; hội trong mỗi quốc gia v&agrave; tr&ecirc;n to&agrave;n thế giới.</p> <p> Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, c&aacute;c quốc gia c&oacute; nền kinh tế v&agrave; khoa học c&ocirc;ng nghệ ph&aacute;t triển đ&atilde; đề ra những chương tr&igrave;nh, chiến lược nhằm hướng nền kinh tế ph&aacute;t triển theo những đặc trưng của kinh tế tri thức. C&oacute; thể kể đến những v&iacute; dụ điển h&igrave;nh như: từ 1984 đến nay, mỗi năm ch&iacute;nh phủ Mỹ chi h&agrave;ng trăm tỷ USD cho hoạt động khoa học, c&ocirc;ng nghệ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, ch&iacute;nh phủ Nhật đ&atilde; d&agrave;nh cho chương tr&igrave;nh vi điện tử hơn 100 tỷ USD. Những năm 90 đến nay, nước Nhật đ&atilde; d&agrave;nh khoảng 3% tổng sản phẩm quốc d&acirc;n cho hoạt động nghi&ecirc;n cứu v&agrave; triển khai. C&aacute;c nước T&acirc;y &Acirc;u cũng đẩy mạnh hoạt động v&agrave;o lĩnh vực c&ocirc;ng nghệ cao, như: c&ocirc;ng nghệ sinh học, c&ocirc;ng nghệ th&ocirc;ng tin, c&ocirc;ng nghệ vật liệu mới, điển h&igrave;nh l&agrave; c&aacute;c nước Đức, Ph&aacute;p, Italia, Anh, Ba Lan... Hiện nay theo số liệu của Ng&acirc;n h&agrave;ng thế giới, nếu x&eacute;t chỉ số chi tiết v&agrave; tổng hợp của kinh tế tri thức th&igrave; c&aacute;c nước Mỹ, Nhật, Singapore, Hồng C&ocirc;ng đều ở vị tr&iacute; h&agrave;ng đầu. Chỉ số kinh tế tri thức (KEI) của Mỹ l&agrave; 9,02; Nhật Bản l&agrave; 8,42; Hồng C&ocirc;ng l&agrave; 8,33. Chỉ số s&aacute;ng tạo của Mỹ l&agrave; cao nhất: 9,47.</p> <p style="text-align: right;"> <strong>Nguyễn Đăng Tuyền</strong></p>