0236.3650403 (128)

MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ LÀM PHÁT


<p> Luật NSNN 2002 đ&atilde; khẳng định: <em>&ldquo;Bội chi NSNN l&agrave; bội chi ng&acirc;n s&aacute;ch trung ương được x&aacute;c định bằng ch&ecirc;nh lệch thiếu giữa tổng số chi ng&acirc;n s&aacute;ch trung ương v&agrave; tổng số thu ng&acirc;n s&aacute;ch trung ương của năm ng&acirc;n s&aacute;ch&rdquo;. </em>Bội chi NSNN ở mức cao đều c&oacute; nguy cơ g&acirc;y ra lạm ph&aacute;t. Bởi v&igrave;, khi ng&acirc;n s&aacute;ch bị bội chi c&oacute; thể được b&ugrave; đắp bằng ph&aacute;t h&agrave;nh tiền hoặc vay nợ, đều g&acirc;y n&ecirc;n nguy cơ lạm ph&aacute;t tăng.</p> <p> <em>Thứ nhất,</em>&nbsp;khi Ng&acirc;n h&agrave;ng Trung ương ph&aacute;t h&agrave;nh tiền trực tiếp để b&ugrave; đắp bội chi NSNN sẽ l&agrave;m tăng cung tiền tệ tr&ecirc;n thị trường, từ đ&oacute; c&oacute; thể g&acirc;y lạm ph&aacute;t cao, đặc biệt khi việc t&agrave;i trợ th&acirc;m hụt lớn v&agrave; diễn ra li&ecirc;n tục th&igrave; nền kinh tế phải trải qua lạm ph&aacute;t cao v&agrave; k&eacute;o d&agrave;i. Điển h&igrave;nh đ&oacute; l&agrave; giai đoạn 1986 &ndash; 1990, Nh&agrave; nước sử dụng biện ph&aacute;p n&agrave;y để b&ugrave; đắp bội chi, khiến cho lạm ph&aacute;t trong những năm n&agrave;y gia tăng nhanh ch&oacute;ng (lu&ocirc;n tr&ecirc;n ba con số, v&iacute; dụ năm 1986, lạm ph&aacute;t nước ta l&ecirc;n đến tr&ecirc;n 700%). Sự gia tăng cung tiền c&oacute; thể kh&ocirc;ng l&agrave;m tăng lạm ph&aacute;t nếu nền kinh tế đang đ&agrave; tăng trưởng, mức cầu tiền giao dịch tăng l&ecirc;n ph&ugrave; hợp với mức tăng của cung tiền. Tuy nhi&ecirc;n, trong trường hợp khu vực tư nh&acirc;n đ&atilde; thỏa m&atilde;n với lượng tiền họ đang nắm giữ (mức cầu tiền tương đối ổn định) th&igrave; sự gia tăng của cung tiền l&agrave;m cho l&atilde;i suất thị trường giảm, nhu cầu ti&ecirc;u d&ugrave;ng về h&agrave;ng h&oacute;a dịch vụ, nhu cầu đầu tư sẽ tăng l&ecirc;n k&eacute;o theo sự tăng của tổng cầu nền kinh tế, mặt bằng gi&aacute; cả sẽ tăng l&ecirc;n g&acirc;y &aacute;p lực lạm ph&aacute;t. Người ta gọi trường hợp khi ch&iacute;nh phủ t&agrave;i trợ th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch bằng c&aacute;ch tăng cung tiền l&agrave; hiện tượng ch&iacute;nh phủ đang thu&nbsp;<em>&quot;thuế lạm ph&aacute;t&quot;</em>&nbsp;từ những người đang nắm giữ tiền.</p> <p> <em>Thứ hai,</em>&nbsp;b&ugrave; đắp th&acirc;m hụt bằng nguồn vay nợ trong nước hoặc nước ngo&agrave;i, việc vay nợ trong nước bằng c&aacute;ch ph&aacute;t h&agrave;nh tr&aacute;i phiếu ra thị trường vốn, nếu việc ph&aacute;t h&agrave;nh diễn ra li&ecirc;n tục th&igrave; sẽ l&agrave;m tăng lượng cầu quỹ cho vay, do d&oacute;, l&agrave;m l&atilde;i suất thị trường tăng. Để giảm l&atilde;i suất, Ng&acirc;n h&agrave;ng Trung ương phải can thiệp bằng c&aacute;ch mua c&aacute;c tr&aacute;i phiếu đ&oacute;, điều n&agrave;y l&agrave;m tăng lượng tiền tệ g&acirc;y lạm ph&aacute;t. Hay vay nợ nước ngo&agrave;i để b&ugrave; đắp bội chi ng&acirc;n s&aacute;ch bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ phải đổi ra nội tệ để chi ti&ecirc;u bằng c&aacute;ch b&aacute;n cho Ng&acirc;n h&agrave;ng Trung ương, điều n&agrave;y l&agrave;m tăng lượng tiền nội tệ tr&ecirc;n thị trường tạo &aacute;p lực l&ecirc;n lạm ph&aacute;t.&nbsp;</p> <p> Thực tế những năm qua, th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch Việt Nam được t&agrave;i trợ phần lớn bằng c&aacute;ch vay nợ th&ocirc;ng qua ph&aacute;t h&agrave;nh tr&aacute;i phiếu Ch&iacute;nh phủ. Lượng tr&aacute;i phiếu n&agrave;y c&oacute; thể được mua bởi Ng&acirc;n h&agrave;ng Nh&agrave; nước (h&igrave;nh thức cấp t&iacute;n dụng trực tiếp cho Ch&iacute;nh phủ) sẽ l&agrave;m tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc lượng tr&aacute;i phiếu được mua bởi c&aacute;c ng&acirc;n h&agrave;ng thương mại, sau đ&oacute; c&aacute;c ng&acirc;n h&agrave;ng thương mại đem cầm cố ch&uacute;ng tại Ng&acirc;n h&agrave;ng Nh&agrave; nước th&ocirc;ng qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc nghiệp vụ t&aacute;i cấp vốn (cấp t&iacute;n dụng gi&aacute;n tiếp cho Ch&iacute;nh phủ). Điều n&agrave;y cũng l&agrave;m tăng lượng tiền cơ sở v&agrave; tăng cung tiền g&acirc;y lạm ph&aacute;t. Theo thống k&ecirc; của Sở Giao dịch Chứng kho&aacute;n H&agrave; Nội (HNX), khối lượng tr&aacute;i phiếu Ch&iacute;nh phủ v&agrave; Tr&aacute;i phiếu Ch&iacute;nh phủ bảo l&atilde;nh đang lưu h&agrave;nh c&oacute; gi&aacute; trị l&ecirc;n tới 336.000 tỷ đồng, tương đương hơn 13% GDP danh nghĩa v&agrave; gần 12% cung tiền M2 năm 2011. Ngo&agrave;i ra, b&ecirc;n cạnh việc vay nợ trong nước, Việt Nam c&ograve;n vay nợ nước ngo&agrave;i để t&agrave;i trợ th&acirc;m hụt, số&nbsp;tiền vay nợ nước ngo&agrave;i chiếm 1/3 th&acirc;m hụt NSNN, tương đương 1,5 &ndash; 1,7% GDP. Đ&acirc;y ch&iacute;nh l&agrave; một trong những nguy&ecirc;n nh&acirc;n g&acirc;y ra lạm ph&aacute;t cao ở Việt Nam trong những năm 2007 - 2008 v&agrave; 2010 - 2011.</p> <p> Th.S Phạm Thị Uy&ecirc;n Thi</p>