0236.3650403 (128)

NỢ CÔNG VÀ TÁC HẠI CỦA NỢ CÔNG


<p> Đỗ Văn T&iacute;nh-Khoa QTKD</p> <p> Nợ ch&iacute;nh phủ, c&ograve;n gọi l&agrave; Nợ c&ocirc;ng hoặc Nợ quốc gia, l&agrave; tổng gi&aacute; trị c&aacute;c khoản tiền m&agrave; ch&iacute;nh phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. Việc đi vay n&agrave;y l&agrave; nhằm t&agrave;i trợ cho c&aacute;c khoản th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch n&ecirc;n n&oacute;i c&aacute;ch kh&aacute;c, nợ ch&iacute;nh phủ l&agrave; th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch luỹ kế đến một thời điểm n&agrave;o đ&oacute;. Để dễ h&igrave;nh dung quy m&ocirc; của nợ ch&iacute;nh phủ, người ta thường đo xem khoản nợ n&agrave;y bằng bao nhi&ecirc;u phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hậu quả p của l&agrave; n&oacute; hủy diệt sự phồn thịnh, l&agrave;m cạn kiệt sức d&acirc;n. Ngay cả khi c&aacute;c biện ph&aacute;p cắt giảm chi ti&ecirc;u v&agrave; tăng thuế l&agrave;m vơi đi một phần n&uacute;i nợ c&ocirc;ng, ch&uacute;ng sẽ khiến cho c&aacute;c hộ gia đ&igrave;nh chẳng c&ograve;n tiền để ti&ecirc;u. Chi ti&ecirc;u của c&aacute;c hộ gia đ&igrave;nh giảm s&uacute;t ắt sẽ dẫn đến tăng trưởng chững lại hoặc giảm theo.</p> <p> Nợ ch&iacute;nh phủ thường được ph&acirc;n th&agrave;nh: Nợ trong nước (c&aacute;c khoản vay từ người cho vay trong nước) v&agrave; nợ nước ngo&agrave;i (c&aacute;c khoản vay từ người cho vay ngo&agrave;i nước). Việc đi vay của ch&iacute;nh phủ c&oacute; thể được thực hiện th&ocirc;ng qua ph&aacute;t h&agrave;nh tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ để vay từ c&aacute;c tổ chức, c&aacute; nh&acirc;n. Tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ ph&aacute;t h&agrave;nh bằng nội tệ được coi l&agrave; kh&ocirc;ng c&oacute; rủi ro t&iacute;n dụng v&igrave; ch&iacute;nh phủ v&igrave; c&oacute; thể tăng thuế thậm ch&iacute; in th&ecirc;m tiền để thanh to&aacute;n cả gốc lẫn l&atilde;i khi đ&aacute;o hạn. So với tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ ph&aacute;t h&agrave;nh bằng nội tệ, tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ ph&aacute;t h&agrave;nh bằng ngoại tệ (thường l&agrave; c&aacute;c ngoại tệ mạnh c&oacute; cầu lớn) c&oacute; rủi ro t&iacute;n dụng cao hơn v&igrave; ch&iacute;nh phủ c&oacute; thể kh&ocirc;ng c&oacute; đủ ngoại tệ để thanh to&aacute;n, th&ecirc;m v&agrave;o đ&oacute; c&ograve;n c&oacute; thể xảy ra rủi ro về tỷ gi&aacute; hối đo&aacute;i.</p> <p> Ngo&agrave;i việc vay bằng c&aacute;ch ph&aacute;t h&agrave;nh tr&aacute;i phiếu n&oacute;i tr&ecirc;n, ch&iacute;nh phủ cũng c&oacute; thể vay tiền trực tiếp từ c&aacute;c ng&acirc;n h&agrave;ng thương mại, c&aacute;c thể chế t&agrave;i ch&iacute;nh quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)&hellip; H&igrave;nh thức vay n&agrave;y thường được ch&iacute;nh phủ của c&aacute;c nước c&oacute; độ t&iacute;n cậy t&iacute;n dụng thấp &aacute;p dụng v&igrave; khi đ&oacute; khả năng vay nợ bằng h&igrave;nh thức ph&aacute;t h&agrave;nh tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ của họ kh&ocirc;ng cao.</p> <p> Khi nợ c&ocirc;ng tăng cao, vượt qu&aacute; xa giới hạn được coi l&agrave; an to&agrave;n, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương v&agrave; chịu nhiều sức &eacute;p cả b&ecirc;n trong v&agrave; b&ecirc;n ngo&agrave;i. Nợ c&ocirc;ng kh&ocirc;ng chỉ l&agrave; vấn đề của những nước chậm hoặc đang ph&aacute;t triển. So khoản nợ c&ocirc;ng với GDP, hiện nay, g&aacute;nh tr&ecirc;n vai g&aacute;nh nặng nợ c&ocirc;ng lớn nhất l&agrave; c&aacute;c nền kinh tế ph&aacute;t triển, trong đ&oacute;, khu vực đồng ơ-r&ocirc; đang đứng trước những thử th&aacute;ch to lớn khi Hy Lạp phải viện đến g&oacute;i cứu trợ của EU v&agrave; IMF để tr&aacute;nh rơi v&agrave;o t&igrave;nh trạng vỡ nợ. Trong b&aacute;o c&aacute;o được c&ocirc;ng bố ng&agrave;y 9-6 &quot;Hậu quả do khủng hoảng t&agrave;i ch&iacute;nh to&agrave;n cầu g&acirc;y ra tr&ecirc;n phương diện thuế kh&oacute;a&quot;, c&aacute;c chuy&ecirc;n gia của IMF khẳng định rằng, v&agrave;o đầu năm 2010 tổng nợ c&ocirc;ng của 10 nước gi&agrave;u nhất thế giới sẽ đạt mức 106% GDP (tương đương mỗi người d&acirc;n nợ 50 ngh&igrave;n USD). V&agrave;o đầu năm 2007 con số n&agrave;y l&agrave; 78%. Như vậy, trong v&ograve;ng 3 năm, nợ c&ocirc;ng của &quot;10 nước gi&agrave;u nhất&rdquo; đ&atilde; tăng hơn 9 ngh&igrave;n tỉ USD. C&aacute;c chuy&ecirc;n gia của IMF cho rằng, theo kịch bản tương đối lạc quan, trong năm 2014, nợ của &quot;10 nước gi&agrave;u nhất&quot; sẽ l&ecirc;n tr&ecirc;n mức 114% GDP, c&ograve;n theo kịch bản bi quan, con số n&agrave;y l&agrave; 150% GDP.</p> <p> Ở những nền kinh tế lớn của thế giới, nợ c&ocirc;ng cũng đang trong t&igrave;nh trạng b&aacute;o động. Ng&agrave;y 19-5, IMF v&agrave; sau đ&oacute;, ng&agrave;y 26-5, OECD đ&atilde; lần lượt cảnh b&aacute;o, với mức nợ c&ocirc;ng hiện nay l&ecirc;n tới 190% GDP v&agrave; chưa c&oacute; dấu hiệu dừng lại, Nhật Bản c&oacute; mức nợ c&ocirc;ng lớn nhất trong số c&aacute;c nước ph&aacute;t triển. Cảnh b&aacute;o n&agrave;y l&agrave;m mọi người lo ngại rằng, Nhật Bản c&oacute; thể sẽ &ldquo;trở th&agrave;nh một Hy Lạp thứ hai&rdquo;. Ng&agrave;y 2-6-2010 vừa qua, Bộ T&agrave;i ch&iacute;nh Mỹ th&ocirc;ng b&aacute;o nợ c&ocirc;ng của Hoa Kỳ t&iacute;nh đến đầu th&aacute;ng s&aacute;u năm nay đ&atilde; vượt qu&aacute; kỷ lục 13 ng&agrave;n tỉ USD. Khoản c&ocirc;ng nợ n&agrave;y đ&atilde; tăng khoảng 1.600 tỉ USD so với năm ngo&aacute;i, tăng hơn gấp đ&ocirc;i trong v&ograve;ng 10 năm qua v&agrave; chiếm tới 90% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) h&agrave;ng năm của Mỹ.</p> <p> Hơn nữa, khi nợ c&ocirc;ng qu&aacute; lớn, việc thắt chặt chi ti&ecirc;u, thực hiện ch&iacute;nh s&aacute;ch &quot;thắt lưng buộc bụng&quot; để giảm th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch l&agrave; điều kiện phải đ&aacute;p ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ c&aacute;c tổ chức t&iacute;n dụng quốc tế, thế nhưng, &quot;thắt lưng buộc bụng&quot; lại dẫn tới những cuộc biểu t&igrave;nh phản đối của quần ch&uacute;ng, g&acirc;y căng thẳng, bất ổn ch&iacute;nh trị, x&atilde; hội, bởi những người ngh&egrave;o, những người yếu thế trong x&atilde; hội l&agrave; những người bị t&aacute;c động mạnh nhất từ ch&iacute;nh s&aacute;ch cắt giảm ph&uacute;c lợi, cắt giảm chi ti&ecirc;u của ch&iacute;nh phủ. Chẳng hạn, để được nhận g&oacute;i cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Ch&iacute;nh phủ Hy Lạp đ&atilde; phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế gi&aacute; trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; v&agrave; đ&aacute;nh thuế v&agrave;o nhiều sản phẩm như rượu, thuốc l&aacute;&hellip;, đồng thời chấp nhận &aacute;p dụng c&aacute;c biện ph&aacute;p cắt giảm chi ti&ecirc;u mạnh tay. Để phản đối ch&iacute;nh s&aacute;ch n&agrave;y của ch&iacute;nh phủ, c&aacute;c cuộc tổng đ&igrave;nh c&ocirc;ng đ&atilde; diễn ra, h&agrave;ng chục ng&agrave;n người đ&atilde; tham gia biểu t&igrave;nh tr&ecirc;n khắp đất nước Hy Lạp, nhất l&agrave; tại thủ đ&ocirc; A-ten.</p> <p> Trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế to&agrave;n cầu mới tho&aacute;t khỏi khủng hoảng, bắt đầu c&oacute; dấu hiệu phục hồi do kết quả của c&aacute;c g&oacute;i k&iacute;ch th&iacute;ch kinh tế m&agrave; ch&iacute;nh phủ c&aacute;c nước đ&atilde; chi ra trong những năm trước đ&acirc;y, th&igrave; việc cắt giảm chi ti&ecirc;u, tăng thuế sẽ l&agrave;m giảm đầu tư, k&igrave;m h&atilde;m sự phục hồi của nền kinh tế, l&agrave;m chậm tốc độ tăng trưởng, thậm ch&iacute; c&oacute; thể đẩy nền kinh tế v&agrave;o &quot;khủng hoảng k&eacute;p&quot;. Nghi&ecirc;m trọng hơn, việc tung ra c&aacute;c g&oacute;i k&iacute;ch th&iacute;ch kinh tế ch&iacute;nh l&agrave; một trong những nguy&ecirc;n nh&acirc;n l&agrave;m tăng nợ c&ocirc;ng của c&aacute;c ch&iacute;nh phủ, vậy nếu như khủng hoảng &ldquo;t&aacute;i xuất&rdquo; th&igrave; liệu c&aacute;c ch&iacute;nh phủ c&oacute; c&ograve;n đủ khả năng xoay xở, cứu v&atilde;n nền kinh tế của m&igrave;nh? Vấn đề đặt ra cho c&aacute;c ch&iacute;nh phủ l&agrave; phải ch&egrave;o l&aacute;i để giải quyết được th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch nhưng kh&ocirc;ng đẩy nền kinh tế trở lại t&igrave;nh trạng suy tho&aacute;i, trong khi c&aacute;c biện ph&aacute;p để giải quyết hai vấn đề n&agrave;y lại c&oacute; t&aacute;c động kh&ocirc;ng thuận chiều.</p> <p> Khi nợ c&ocirc;ng li&ecirc;n tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc t&iacute;n nhiệm theo b&aacute;o c&aacute;o của c&aacute;c tổ chức chuy&ecirc;n đi đ&aacute;nh gi&aacute; t&iacute;n nhiệm c&aacute;c c&ocirc;ng ty v&agrave; quốc gia kh&aacute;c, niềm tin của người d&acirc;n v&agrave; giới đầu tư bị lung lay, khi đ&oacute; nền kinh tế dễ trở th&agrave;nh mục ti&ecirc;u tấn c&ocirc;ng của c&aacute;c thế lực đầu cơ quốc tế. Th&iacute; dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng t&iacute;n dụng Standard &amp; Poor&rsquo;s hạ bậc t&iacute;n nhiệm đối với tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ của A-ten, c&aacute;c quỹ đầu tư lớn lập tức b&aacute;n ra loại tr&aacute;i phiếu n&agrave;y, đồng thời từ chối mua v&agrave;o trong c&aacute;c đợt ph&aacute;t h&agrave;nh tiếp theo. Nếu ch&iacute;nh phủ muốn huy động tiền từ thị trường t&agrave;i ch&iacute;nh sẽ phải chấp nhận chi ph&iacute; vốn cao hơn v&agrave; sau đ&oacute;, rơi v&agrave;o v&ograve;ng xo&aacute;y: tiếp tục bị tụt bậc t&iacute;n nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng t&iacute;n nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế c&oacute; nguy cơ l&agrave;m cho cuộc khủng hoảng th&ecirc;m trầm trọng, c&oacute; t&aacute;c dụng như một &quot;c&uacute; hu&yacute;ch&quot;, đẩy nền kinh tế l&uacute;n s&acirc;u th&ecirc;m v&agrave;o kh&oacute; khăn, bế tắc.</p> <p> Việc căn cứ v&agrave;o mức nợ c&ocirc;ng tr&ecirc;n GDP để x&aacute;c định t&igrave;nh trạng nợ c&ocirc;ng l&agrave; hết sức quan trọng, tuy nhi&ecirc;n, điều quan trọng kh&ocirc;ng k&eacute;m l&agrave; ph&acirc;n t&iacute;ch &quot;thực chất&quot; nợ c&ocirc;ng. Đ&oacute; l&agrave;: nợ ch&iacute;nh phủ l&agrave; vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngo&agrave;i; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay t&igrave;nh trạng &quot;sức khỏe&quot; n&oacute;i chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia&hellip; Chẳng hạn, hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản c&oacute; thể trở th&agrave;nh &ldquo;một Hy Lạp thứ hai&rdquo;, thế nhưng, một số nh&agrave; ph&acirc;n t&iacute;ch, khi ph&acirc;n t&iacute;ch nợ c&ocirc;ng của Nhật Bản đ&atilde; cho thấy c&oacute; sự kh&aacute;c biệt kh&aacute; lớn giữa nợ c&ocirc;ng của nước n&agrave;y với nợ c&ocirc;ng của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% tr&aacute;i phiếu ch&iacute;nh phủ của Nhật Bản do người d&acirc;n nước n&agrave;y nắm giữ, trong khi 70% nợ ch&iacute;nh phủ Hy Lạp do người nước ngo&agrave;i nắm giữ. B&ecirc;n cạnh đ&oacute;, Nhật c&ograve;n tự chủ về tỷ gi&aacute; hối đo&aacute;i, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số m&agrave; Bộ T&agrave;i ch&iacute;nh Nhật Bản c&ocirc;ng bố ng&agrave;y 12-5, t&iacute;nh đến cuối th&aacute;ng 4-2010, dự trữ quốc gia của Nhật l&agrave; 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc d&ugrave; ngo&agrave;i nợ c&ocirc;ng cao c&ograve;n đứng trước nhiều kh&oacute; khăn kh&aacute;c nữa, nhưng vẫn được dự b&aacute;o l&agrave; kh&oacute; c&oacute; thể trở th&agrave;nh mục ti&ecirc;u tấn c&ocirc;ng của giới đầu cơ quốc tế.</p> <p> Như vậy, việc đ&aacute;nh gi&aacute; đ&uacute;ng nợ c&ocirc;ng v&agrave; &ldquo;thực chất&rdquo; nợ c&ocirc;ng của một nền kinh tế, một quốc gia l&agrave; v&ocirc; c&ugrave;ng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ ch&uacute; trọng v&agrave;o con số tỷ lệ nợ c&ocirc;ng cao một c&aacute;ch thuần t&uacute;y sẽ g&acirc;y n&ecirc;n hiệu ứng t&acirc;m l&yacute; hoang mang, k&iacute;ch động, thiếu tin tưởng, l&agrave;m gia tăng căng thẳng x&atilde; hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn c&ocirc;ng, dễ g&acirc;y rối loạn nền kinh tế, thậm ch&iacute; dẫn nền kinh tế đến b&ecirc;n bờ vực ph&aacute; sản. Ngược lại, nếu y&ecirc;n t&acirc;m với tỷ lệ nợ c&ocirc;ng c&ograve;n trong giới hạn an to&agrave;n, m&agrave; kh&ocirc;ng ph&acirc;n t&iacute;ch cẩn trọng, ch&uacute; &yacute; đ&uacute;ng mức đến khoản nợ đ&oacute; được h&igrave;nh th&agrave;nh như thế n&agrave;o, bằng c&aacute;ch n&agrave;o, thực trạng nền kinh tế ra sao v&agrave; khả năng trả nợ thế n&agrave;o&hellip;, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi v&agrave;o v&ograve;ng xo&aacute;y th&acirc;m hụt ng&acirc;n s&aacute;ch &ndash; &quot;thắt lưng buộc bụng&quot; &ndash; t&aacute;c động ti&ecirc;u cực đến tăng trưởng</p>