0236.3650403 (128)

PHÂN TÍCH SO SÁNH VỀ SỰ CẠNH TRANH GIỮA NGÀNH THỜI TRANG HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN BẰNG CÁCH ÁP DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG ĐÔI KHÁI QUÁT (phần 3)


<p> 2.2 L&yacute; thuyết m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i</p> <p> 2.2.1 M&ocirc; h&igrave;nh Kim cương của Porter</p> <p> Tr&ecirc;n cơ sở 4 năm nghi&ecirc;n cứu của 10 quốc gia, Porter (1990) đ&atilde; giới thiệu m&ocirc; h&igrave;nh kim cương như một phương ph&aacute;p mới để ph&acirc;n t&iacute;ch lợi thế cạnh tranh của quốc gia. M&ocirc; h&igrave;nh kim cương của Porter kết hợp một c&aacute;ch hệ thống nhiều biến quan trọng v&agrave;o m&ocirc; h&igrave;nh đơn, kết hợp với c&aacute;c điều kiện yếu tố sản xuất m&agrave; hầu hết c&aacute;c nh&agrave; l&yacute; thuyết cổ điển ứng dụng để giải th&iacute;ch lợi thế cạnh tranh quốc gia. M&ocirc; h&igrave;nh kim cương của Porter đ&atilde; kết hợp c&aacute;c biết nội sinh v&agrave; c&aacute;c biến ngoại sinh v&agrave; cung cấp 4 yếu tố quyết định m&agrave; hoạt động như c&aacute;c biến tham khảo c&oacute; gi&aacute; trị khi đ&aacute;nh gi&aacute; lợi thế cạnh tranh quốc gia: c&aacute;c điều kiện yếu tố sản xuất, c&aacute;c điều kiện cầu, ng&agrave;nh hỗ trợ v&agrave; c&oacute; li&ecirc;n quan, v&agrave; chiến lượng c&ocirc;ng ty, cấu tr&uacute;c v&agrave; đối thủ cạnh tranh. 4 yếu tố n&agrave;y l&agrave; những biến nội sinh v&agrave; quan hệ tương quan với nhau. Th&ecirc;m v&agrave;o đ&oacute;, c&oacute; 2 yếu tố ngoại sinh: ch&iacute;nh phủ v&agrave; c&aacute;c cơ hội (Moon, Rugman v&agrave; verbeke 1998; 136-147 Rugman and D&rsquo;Cruz 1993; 19-20).</p> <p> Yếu tố quyết định đầu ti&ecirc;n, c&aacute;c điều kiện yếu tố sản xuất, bao gồm nguồn nh&acirc;n lực, vốn v&agrave; nguồn lực vật chất (c&aacute;c điều kiện cơ bản) cũng như cơ sơ hạ tầng v&agrave; nền tảng gi&aacute;o dục của đăt nước (c&aacute;c điều kiện sản xuất ti&ecirc;n tiến). yếu tố thứ 2, điều kiện cầu bao gồm cấu tr&uacute;c cầu của thị trường trong nước, qui m&ocirc; v&agrave; sự ph&aacute;t triển của cầu trong nước, v&agrave; c&aacute;c qui tr&igrave;nh m&agrave; th&ocirc;ng qua đ&oacute; cầu trong nước được quốc tế h&oacute;a. Yếu tố thứ 3 l&agrave; vai tr&ograve; của c&aacute;c ng&agrave;nh hỗ trợ v&agrave; c&oacute; li&ecirc;n quan trong việc x&uacute;c tiến lợi thế cạnh tranh th&ocirc;ng qua c&aacute;c hoạt động kết hợp v&agrave; chia sẽ trong chuỗi gi&aacute; trị. Yếu tố thứ 4 chiến lược, cấu tr&uacute;c của c&ocirc;ng ty v&agrave; đối thủ cạnh tranh, như c&aacute;c c&aacute;ch m&agrave; họ quản l&yacute; v&agrave; chọn lựa để cạnh tranh (Liu and Hsu 2009; 161 Wyk 2010; 58).</p> <p> Mặc d&ugrave; m&ocirc; h&igrave;nh kim cương của Porter đ&atilde; g&oacute;p phần ph&aacute;t triển c&oacute; t&iacute;nh c&aacute;ch mạng về việc giải th&iacute;ch lợi thế cạnh tranh quốc gia v&agrave; nhiều nghi&ecirc;n cứu đ&atilde; được tiến h&agrave;nh bằng c&aacute;ch vận dụng m&ocirc; h&igrave;nh, nhiều nghi&ecirc;n cứu kh&aacute;c đ&atilde; chỉ ra những giới hạn của m&ocirc; h&igrave;nh kim cương. Điểm yếu nhất của m&ocirc; h&igrave;nh xuất ph&aacute;t từ sự tập trung duy nhất của Porter v&agrave;o việc x&acirc;y dựng &ldquo;tr&ecirc;n cơ sở nội lực&rdquo;. N&oacute;i c&aacute;ch kh&aacute;c, m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đơn kh&ocirc;ng cung cấp sự giải th&iacute;ch một c&aacute;ch hiệu quả về c&aacute;c hoạt động của c&ocirc;ng ty đa quốc gia. Th&ecirc;m v&agrave;o đ&oacute;,&nbsp; m&ocirc; h&igrave;nh kim cương dựa v&agrave;o nội lực của Porter kh&ocirc;ng ph&ugrave; hợp với những nền kinh tế mở nhỏ. Từ quan điểm của một quốc gia nhỏ, phụ thuộc v&agrave;o phần lớn thị trường nước ngo&agrave;i v&agrave; cũng dựa tr&ecirc;n ch&iacute;nh s&aacute;ch hướng ngoại, quan điểm của Porter phần lớn cố định cho những nước dựa v&agrave;o nội lực l&agrave; ch&iacute;nh, v&agrave; v&igrave; vậy m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đơn cần t&iacute;ch hợp v&agrave; li&ecirc;n kết với những kim cương của những quốc gia kh&aacute;c mạnh hơn về kinh tế. Khi to&agrave;n cầu h&oacute;a tiến h&agrave;nh rộng khắp v&agrave;o thế kỷ 20, c&aacute;c c&ocirc;ng ty đa quốc gia to&agrave;n cầu c&oacute; một vai tr&ograve; quan trọng như một lực lượng t&iacute;ch hợp trong nền kinh kế to&agrave;n cầu. V&igrave; vậy nhiều nghi&ecirc;n cứu cho rằng m&ocirc; h&igrave;nh kim cương của Porter cần được điều chỉnh đ&aacute;ng kể để ph&ugrave; hợp với bản chất hiện tại của c&aacute;c MNE bằng c&aacute;ch kh&ocirc;ng chỉ xem x&eacute;t c&aacute;c nguồn lực nội địa m&agrave; c&ograve;n c&aacute;c nguồn lực nước ngo&agrave;i. V&igrave; vậy, một sự điều chỉnh m&ocirc; h&igrave;nh kim cương của Porter được tiến h&agrave;nh v&agrave; được xem như m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i (DDM) (Moon and Kim 2010; 77 Moon, Rugman and Verbeke 1998; 148 Rugman and D&rsquo;cruz 1993; 24-26 Sardy &amp; Fetscherin 2009;7).</p> <p> 2.2.2 <strong>M&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t</strong></p> <p> Rugman and D&rsquo;cruz (1993) đ&atilde; giới thiệu m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i li&ecirc;n kết kim cương nội địa của mỗi quốc gia v&agrave;o th&agrave;nh một &ldquo;tam gi&aacute;c&rdquo; quan trọng, v&igrave; vậy kết hợp nội dung quốc tế v&agrave;o lợi thế cạnh tranh quốc gia. Hơn nữa, họ đề nghị rằng c&aacute;c nh&agrave; quản l&yacute; to&agrave;n cầu quan t&acirc;m cả kim cương nội địa v&agrave; quốc tế để tồn tại v&agrave; ph&aacute;t triển trong thị trường to&agrave;n cầu h&oacute;a ng&agrave;y c&agrave;ng tăng (Rugman and D&rsquo;cruz 1993; 29-31 Moon and Kim 2010; 77).</p> <p> Mặc d&ugrave; m&ocirc; h&igrave;nh kim cương Bắc Mỹ của D&rsquo;Cruz ph&ugrave; hợp với Canada v&agrave; New Zealand, n&oacute; c&oacute; thể kh&ocirc;ng ph&ugrave; hợp với c&aacute;c quốc gia nhỏ kh&aacute;c như H&agrave;n quốc v&agrave; Singapore. C&aacute;c c&ocirc;ng ty từ c&aacute;c quốc gia nhỏ hoặc hoạt động của c&aacute;c MNE, được tiến h&agrave;nh cả cạnh tranh trong nước v&agrave; to&agrave;n cầu về nguồn lực v&agrave; thị trường, gần như được xem x&eacute;t tr&ecirc;n to&agrave;n cầu nhiều hơn với cấu tr&uacute;c ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp nội địa. sự li&ecirc;n kết với kim cương của c&aacute;c quốc gia kh&aacute;c c&oacute; thể ảnh hưởng đến kim cương nội địa. v&igrave; vậy, Moon et al (1995;1998) đ&atilde; kh&aacute;i qu&aacute;t m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i (m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t, GDDM) để ph&ugrave; hợp với tất cả c&aacute;c nền kinh tế mở nhỏ bằng c&aacute;ch t&iacute;ch hợp ch&iacute;nh thức c&aacute;c hoạt động đa quốc gia được thể hiện như sự kh&aacute;c nhau giữa kim cương nội địa v&agrave; quốc tế (Liu and Hsu 2009; 162 Moon, Rugman and Verbeke 1998;148).</p> <p> Trong m&ocirc; h&igrave;nh kim cương tổng qu&aacute;t, Moon et al (1998) định nghĩa lợi thế cạnh tranh quốc gia như khả năng của c&aacute;c c&ocirc;ng ty tiến h&agrave;nh c&aacute;c hoạt động tạo gi&aacute; trị gia tăng trong một ng&agrave;nh cụ thể trong một quốc gia cụ thể c&oacute; thể đem lại kết quả cho cả c&ocirc;ng ty trong nước v&agrave; c&ocirc;ng ty sở hữu nước ngo&agrave;i. M&ocirc; h&igrave;nh kim cương quốc tế đại diện cho lợi thế cạnh tranh quốc gia được quyết định bởi yếu tố quốc tế v&agrave; nội địa. c&aacute;c hoạt động đa quốc gia n&agrave;y được bao gồm cả đầu tư trực tiếp nước ngo&agrave;i b&ecirc;n trong v&agrave; b&ecirc;n ngo&agrave;i Liu and Hsu 2009; 162-163 Moon, Rugman and Verbeke 1998;138-139).</p> <p> DDM được chứng minh l&agrave; hữu &iacute;ch hơn cho việc thực hiện so s&aacute;nh to&agrave;n cầu. n&oacute; c&oacute; 3 sự mở rộng quan trọng của m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đơn của Porter: (1) m&ocirc; h&igrave;nh r&otilde; r&agrave;ng kết hợp c&aacute;c hoạt động đa quốc gia; (2) m&ocirc; h&igrave;nh c&oacute; thể hoạt động m&ocirc; h&igrave;nh cạnh tranh v&agrave; so s&aacute;nh qui m&ocirc; v&agrave; b&oacute;ng d&aacute;ng của kim cương nội địa v&agrave; quốc tế thể hiện sự kh&aacute;c biệt chiến lược chủ yếu; (3) n&oacute; bao gồm ch&iacute;nh phủ như&nbsp; một biến quan trọng ảnh hưởng đến 4 yếu tố quyết định của m&ocirc; h&igrave;nh kim cương. Để&nbsp; tiếp cận lợi thế cạnh tranh quốc gia, cả yếu tố quyết định nội địa v&agrave; quốc tế phải được thực hiện (Sardy and Fetscherin 2009;7)</p> <p> 2.2.3 ỨNG DỤNG CỦA M&Ocirc; H&Igrave;NH KIM CƯƠNG Đ&Ocirc;I</p> <p> M&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i v&agrave; M&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t đ&atilde; được ứng dụng chủ yếu để ph&acirc;n t&iacute;ch so s&aacute;nh lợi thế cạnh tranh của 2 quốc gia.</p> <p> Birdwell v&agrave; Kuo (2006), trong thảo luận về ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp m&aacute;y t&iacute;nh ở Trung quốc v&agrave; Đ&agrave;i loan, tr&igrave;nh b&agrave;y kim cương đơn của mỗi quốc gia, nhưng cũng c&oacute; kim cương đ&ocirc;i cho Trung quốc lớn hơn, như 2 quốc gia hoặc một quốc gia với 2 khu vực được kết nối lẫn nhau. Moon et al (1998) chứng minh gi&aacute; trị của GDDM th&ocirc;ng qua nghi&ecirc;n cứu điển h&igrave;nh H&agrave;n quốc v&agrave; Singapore. Ban đầu, 2 nền kinh tế n&agrave;y được chọn v&igrave; sự dụ b&aacute;o kh&ocirc;ng th&iacute;ch hợp của Porter về 2 nền kinh tế dựa v&agrave;o m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đơn. Sau 10 năm khủng hoảng t&agrave;i ch&iacute;nh của Ch&acirc;u &aacute; v&agrave;o 1997, Kim v&agrave; Moon đ&atilde; so s&aacute;nh v&agrave; đối chiếu với lợi thế cạnh tranh của H&agrave;n quốc v&agrave; Singapore th&ocirc;ng qua 10 năm trước đ&oacute;. Liu v&agrave; Hsu (2009) đ&atilde; so s&aacute;nh lợi thế cạnh tranh của Đ&agrave;i loan v&agrave; H&agrave;n quốc. sự so s&aacute;nh giữa mỗi cặp quốc gia được dựa tr&ecirc;n gi&aacute; trị trung b&igrave;nh của dữ liệu 5 năm (2000-2004). Họ &aacute;p dụng m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t để tiếp cận ph&acirc;n t&iacute;ch lợi thế cạnh tranh tổng thể của c&aacute;c nền kinh tế nhỏ n&agrave;y. Wyk (2010) kh&ocirc;ng so s&aacute;nh 2 ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp hoặc 2 nền kinh tế m&agrave; thay v&agrave;o đ&oacute; l&agrave; điều tra lợi thế cạnh tranh quốc gia của Botswana về ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp kim cương to&agrave;n cầu. Một m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i được ph&aacute;t triển để kh&aacute;m ph&aacute; lợi thế cạnh tranh của Botswana, v&agrave; đề xuất thay đổi chiến lược cạnh tranh quốc gia của Botswana.</p> <p> Moon v&agrave; Lee (2004) cố gắng l&agrave;m r&otilde; c&ocirc;ng bố lợi thế cạnh tranh của c&ocirc;ng ty điện tử Samsung v&agrave; Sony bằng m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t v&agrave; cũng đề nghị yếu tố ch&iacute;nh quyết định lợi thế cạnh tranh của c&aacute;c c&ocirc;ng ty đa quốc gia trong thị trường cạnh tranh to&agrave;n cầu. Kim el at (2006) v&agrave; Son el at (2007) c&oacute; những phương ph&aacute;p v&agrave; qui tr&igrave;nh kh&aacute;c nhau để thu thập dữ liệu, nhưng cả hai đều &aacute;p dụng m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t để so s&aacute;nh lợi thế cạnh tranh của ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc v&agrave; Trung quốc để điều tra lợi thế cạnh tranh của ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc v&agrave; x&acirc;y dựng chiến lược x&acirc;m nhập cho thị trường thời trang Trung quốc. Sardy v&agrave; Fetschein (2009) đ&atilde; so s&aacute;nh lợi thế cạnh tranh của ng&agrave;nh chế tạo &ocirc; t&ocirc; nổi l&ecirc;n ở Trung quốc, Ấn độ v&agrave; Nam triều ti&ecirc;n bằng c&aacute;ch sử dụng m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i.</p> <p> Ths, Nguyễn Thị Tuy&ecirc;n Ng&ocirc;n</p> <p> Dịch từ nguồn:&nbsp;A Comparative Analysis on the Competitiveness of Korean and Japanese Fashion Industry by Applying Generalized Double Diamond Model -Mi Young Son** Yokoyama Kenji*** - ASIA MARKETING JOURNAL Vol. 15 No. 01 April 2013(57~81)</p>