0236.3650403 (128)

QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG BỀN VỮNG


<p> Trong m&ocirc;i trường kinh doanh ng&agrave;y nay, cũng như cạnh tranh về chi ph&iacute; v&agrave; lợi nhuận, c&aacute;c tổ chức c&oacute; một sự tập trung mới v&agrave;o t&iacute;nh bền vững (Tseng, 2013). Nhiều nghi&ecirc;n cứu cho thấy c&aacute;c c&ocirc;ng ty c&oacute; &quot;văn ho&aacute; bền vững&quot; hoạt động tốt hơn về l&acirc;u d&agrave;i so với c&aacute;c c&ocirc;ng ty kh&aacute;c (Pagell v&agrave; Wu, 2009, Lin v&agrave; cộng sự, 2016). Chắc chắn, t&iacute;nh dễ hiểu được coi l&agrave; một th&agrave;nh phần quan trọng của lợi thế cạnh tranh. C&aacute;c nghi&ecirc;n cứu gần đ&acirc;y cho thấy nhu cầu c&aacute;c doanh nghiệp phải bền vững l&agrave; do &aacute;p lực của c&aacute;c b&ecirc;n li&ecirc;n quan, như ch&iacute;nh phủ, người ti&ecirc;u d&ugrave;ng v&agrave; x&atilde; hội rộng lớn hơn (Sharfman et al., 1997; Christmann v&agrave; Taylor, 2001; Zhu v&agrave; cộng sự, 2007). V&iacute; dụ, trong năm 2011, Greenpeace x&aacute;c định Apple l&agrave; c&ocirc;ng ty c&ocirc;ng nghệ &quot;&iacute;t xanh&quot; nhất v&igrave; mức ti&ecirc;u thụ năng lượng đ&aacute;ng kể do dịch vụ dữ liệu đ&aacute;m m&acirc;y của n&oacute; g&acirc;y ra (Carus, 2011). Sau đ&oacute; Apple đ&atilde; triển khai một loạt c&aacute;c chương tr&igrave;nh quản l&yacute; xanh để t&aacute;i tạo lại m&ocirc; h&igrave;nh kinh doanh theo hướng ti&ecirc;u d&ugrave;ng v&agrave; sản xuất bền vững (Apple, 2015). Gần đ&acirc;y, Apple th&ocirc;ng b&aacute;o rằng 93% cơ sở của họ đang chạy về năng lượng xanh (Kokalitcheva, 2016). Sự cải thiện n&agrave;y li&ecirc;n quan đến quản l&yacute; bền vững của Apple đ&atilde; được thị trường v&agrave; x&atilde; hội c&ocirc;ng nhận (Hardcastle, 2016).</p> <p> Ở Trung Quốc cũng như c&aacute;c nơi kh&aacute;c, c&aacute;c nh&agrave; sản xuất đ&atilde; bắt đầu xem x&eacute;t l&agrave;m thế n&agrave;o để l&agrave;m cho doanh nghiệp của họ bền vững hơn, để đ&aacute;p ứng c&aacute;c quy định về m&ocirc;i trường do ch&iacute;nh phủ, x&atilde; hội ng&agrave;y c&agrave;ng được gi&aacute;o dục v&agrave; đối thủ cạnh tranh, v&agrave; kh&aacute;ch h&agrave;ng quốc tế của họ (Govindan et al. , Năm 2014). Hơn nữa, ở Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế to lớn đ&atilde; dẫn đến một t&igrave;nh huống kinh tế sinh th&aacute;i bất ổn (Zhu v&agrave; Sarkis, 2007, Yardley, 2005), tăng cường nhận thức về nhu cầu về t&iacute;nh bền vững. Theo Zhang et al. (2002), Zhang v&agrave; Wen (2008), Trung Quốc n&ecirc;n thực hiện chiến lược ti&ecirc;u thụ &iacute;t t&agrave;i nguy&ecirc;n v&agrave; tăng trưởng kinh tế ổn định v&agrave; bền vững. Tuy nhi&ecirc;n, nghi&ecirc;n cứu về chuỗi gi&aacute; trị bền vững ở c&aacute;c nước đang ph&aacute;t triển như Trung Quốc kh&ocirc;ng rộng, v&agrave; n&oacute; vẫn l&agrave; một kh&aacute;i niệm mới (Zhu v&agrave; cộng sự, 2008a, b, c). C&aacute;c nh&agrave; quản l&yacute; vẫn thiếu hướng dẫn tổng thể về ra quyết định kinh doanh để giải quyết c&aacute;c vấn đề bền vững trong m&ocirc;i trường kinh doanh cạnh tranh c&oacute; t&iacute;nh cạnh tranh cao hiện nay.</p> <p> Trong thập kỷ qua, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu đ&atilde; cố gắng mở rộng ranh giới ph&aacute;t triển bền vững v&agrave;o lĩnh vực quản l&yacute; chuỗi cung ứng, để điều tra chuỗi cung ứng bền vững (SSCM) (Pagell and Wu, 2009; Tseng et al., 2015 , Tseng v&agrave; Chiu, 2013). Dựa v&agrave;o ti&ecirc;u chuẩn cấp ba (TBL), ng&agrave;y c&agrave;ng r&otilde; r&agrave;ng rằng SSCM n&ecirc;n giải quyết cả vấn đề m&ocirc;i trường v&agrave; x&atilde; hội (Kleindorfer v&agrave; cộng sự, 2005. Corbett v&agrave; Klassen, 2006, Tseng v&agrave; cộng sự, 2008). Tuy nhi&ecirc;n, trong khi một số lượng ng&agrave;y c&agrave;ng tăng của c&aacute;c c&ocirc;ng ty bắt đầu &aacute;p dụng c&aacute;c chỉ số như m&ocirc;i trường, y tế v&agrave; an to&agrave;n v&agrave; c&aacute;c yếu tố x&atilde; hội để đo lường t&iacute;nh bền vững của sản xuất (Tseng, 2013, Tseng v&agrave; cộng sự, 2008, Tseng v&agrave; Lin, 2009) tập trung nhiều nhất v&agrave;o kh&iacute;a cạnh m&ocirc;i trường (Seuring and Muller, 2008). C&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu rất quan t&acirc;m để x&aacute;c định c&aacute;c phương ph&aacute;p tốt nhất để cải thiện hiệu suất m&ocirc;i trường. C&oacute; hai hướng nghi&ecirc;n cứu ch&iacute;nh l&agrave; kiểm tra t&aacute;c động của c&aacute;c hệ thống quản l&yacute; nh&acirc;n lực hiện c&oacute; đối với hoạt động m&ocirc;i trường của c&aacute;c c&ocirc;ng ty, v&agrave; kh&aacute;i niệm về thực tiễn quản l&yacute; m&ocirc;i trường mới (Pagell and Wu, 2009). V&iacute; dụ, King v&agrave; Lenox (2001) kh&aacute;m ph&aacute; mối li&ecirc;n kết giữa sản xuất nạc, đo bằng việc &aacute;p dụng ti&ecirc;u chuẩn ISO 9000 v&agrave; hiệu suất m&ocirc;i trường. Mặt kh&aacute;c, Zhu et al. (2008b) đ&atilde; ph&aacute;t triển một quy m&ocirc; đo lường quan trọng của Quản l&yacute; Chuỗi Cung ứng Xanh (GSCM). Gần đ&acirc;y nhất, Esfahbodi et al. (2016) đ&atilde; thực nghiệm kiểm chứng mối quan hệ giữa c&aacute;c thực tiễn SSCM v&agrave; kết quả hoạt động của tổ chức theo hai quan điểm - hiệu quả về m&ocirc;i trường v&agrave; hiệu quả chi ph&iacute;. Tuy nhi&ecirc;n, m&ocirc; h&igrave;nh SSCM của họ vẫn l&agrave; một sửa đổi của thực tiễn GSCM hiện tại, chỉ tập trung v&agrave;o mức độ m&ocirc;i trường. So với nghi&ecirc;n cứu về c&aacute;c vấn đề m&ocirc;i trường / xanh l&aacute; c&acirc;y, c&oacute; rất &iacute;t văn học SSCM xem x&eacute;t kh&iacute;a cạnh x&atilde; hội (Seuring and Muller, 2008). Thật vậy, Kleindorfer et al. (2005) cho rằng c&aacute;c nghi&ecirc;n cứu hiện nay về SSCM đ&atilde; bỏ qua th&agrave;nh phần x&atilde; hội của t&iacute;nh bền vững. Trong số &iacute;t trường hợp ngoại lệ, một số t&aacute;c giả đ&atilde; &aacute;p dụng bốn phạm tr&ugrave; tr&aacute;ch nhiệm x&atilde; hội l&agrave; Lao động, Nh&acirc;n quyền, X&atilde; hội v&agrave; Tr&aacute;ch nhiệm Sản phẩm nhằm x&acirc;y dựng c&aacute;c chỉ số đ&aacute;nh gi&aacute; x&atilde; hội (Jorgensen et al., 2008). Theo hiểu biết của ch&uacute;ng t&ocirc;i, c&oacute; rất &iacute;t nghi&ecirc;n cứu thực nghiệm nhằm củng cố c&aacute;c kh&iacute;a cạnh x&atilde; hội v&agrave; m&ocirc;i trường trong qu&aacute; tr&igrave;nh đầu tư của SSCM. Nghi&ecirc;n cứu hiện tại chủ yếu tranh luận rằng SSCM n&ecirc;n c&oacute; một sự c&acirc;n nhắc đa chiều kh&ocirc;ng chỉ tập trung v&agrave;o kh&iacute;a cạnh m&ocirc;i trường hoặc kh&iacute;a cạnh x&atilde; hội ri&ecirc;ng lẻ. Để thu hẹp khoảng c&aacute;ch nghi&ecirc;n cứu, c&aacute;c nh&agrave; khoa học thương tập trung v&agrave;o việc trả lời những c&acirc;u hỏi sau:</p> <p> Nghi&ecirc;n cứu C&acirc;u hỏi 1: SSCM c&oacute; bao gồm c&aacute;c kh&iacute;a cạnh m&ocirc;i trường v&agrave; x&atilde; hội kh&ocirc;ng? Nghi&ecirc;n cứu C&acirc;u hỏi 2: L&agrave;m thế n&agrave;o để đo SSCM?</p> <p> Nghi&ecirc;n cứu vầ đề n&agrave;y sẽ kh&aacute;i niệm ho&aacute; v&agrave; x&aacute;c nhận c&aacute;c kết cấu của SSCM trong bối cảnh ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp sản xuất của Trung Quốc. Dựa v&agrave;o những hiểu biết s&acirc;u sắc từ t&agrave;i liệu GSCM v&agrave; CSR, nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y tổng hợp một cấu tr&uacute;c to&agrave;n diện của SSCM v&agrave; cung cấp thang đo lường cho c&aacute;c học vi&ecirc;n v&agrave; cho c&aacute;c nghi&ecirc;n cứu trong tương lai. Dựa tr&ecirc;n c&aacute;c ph&aacute;t hiện của một b&agrave;i tổng quan t&agrave;i liệu rộng r&atilde;i v&agrave; c&aacute;c cuộc phỏng vấn c&oacute; cấu tr&uacute;c với c&aacute;c học giả v&agrave; thực h&agrave;nh c&oacute; kinh nghiệm, SSCM được m&ocirc; h&igrave;nh ho&aacute; như một cấu tr&uacute;c thứ ba. Một qu&aacute; tr&igrave;nh ph&aacute;t triển quy m&ocirc; khắt khe đ&atilde; được &aacute;p dụng, đ&atilde; được &aacute;p dụng rộng r&atilde;i trong văn bản (như Shah and Ward, 2007, Cao v&agrave; Zhang, 2010, Oliveira v&agrave; Roth, 2012) để x&aacute;c nhận cấu tr&uacute;c đề xuất của SSCM. Cơ cấu đề xuất n&agrave;y thiết lập c&aacute;c thực tiễn quản l&yacute; then chốt để x&aacute;c định thuộc t&iacute;nh SSCM của ba kh&iacute;a cạnh quan trọng, cụ thể l&agrave; GSCM b&ecirc;n ngo&agrave;i, GSCM nội bộ v&agrave; CSR.</p> <p> Ngo&agrave;i ra nghi&ecirc;n cứu sẽ đ&oacute;ng g&oacute;p cho văn học SSCM bằng c&aacute;ch tạo ra một khu&ocirc;n khổ to&agrave;n diện bao gồm cả kh&iacute;a cạnh m&ocirc;i trường v&agrave; kh&iacute;a cạnh x&atilde; hội. Sử dụng mẫu lớn từ c&aacute;c nh&agrave; sản xuất người Trung Quốc v&agrave; phương ph&aacute;p ph&aacute;t triển đo lường chặt chẽ, nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y cũng đ&oacute;ng g&oacute;p SSCM thực hiện c&aacute;c quy m&ocirc; đo lường được hỗ trợ theo thực nghiệm. Thực tế, theo cấu tr&uacute;c bậc cao, c&aacute;c nh&agrave; quản l&yacute; c&oacute; thể x&aacute;c định r&otilde; khu vực cần phải được cải thiện để đạt được sự ph&aacute;t triển bền vững trong chuỗi cung ứng. Cụ thể, m&ocirc; h&igrave;nh tr&igrave;nh tự bậc cao đ&atilde; được x&aacute;c nhận c&oacute; thể gi&uacute;p c&aacute;c nh&agrave; quản l&yacute; nhận ra sự tương đồng v&agrave; sự kh&aacute;c biệt của thực tiễn quản l&yacute; theo cấu tr&uacute;c hệ thống. Ngo&agrave;i ra, c&aacute;c chỉ số đo lường đ&atilde; được x&aacute;c nhận c&oacute; thể phục vụ như l&agrave; danh s&aacute;ch kiểm tra để hỗ trợ c&aacute;c học vi&ecirc;n trong việc &aacute;p dụng c&aacute;c h&agrave;nh động c&oacute; li&ecirc;n quan của SSCM trong thực tế.</p> <p> Nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y cũng m&ocirc; tả nền tảng l&yacute; thuyết của SSCM v&agrave; đưa ra giả thuyết li&ecirc;n quan trong m&ocirc; h&igrave;nh cấu tr&uacute;c đề xuất. Tr&igrave;nh b&agrave;y c&aacute;c chi tiết của qu&aacute; tr&igrave;nh ph&aacute;t triển quy m&ocirc;. Cung cấp c&aacute;c ph&acirc;n t&iacute;ch dữ liệu cho m&ocirc; h&igrave;nh đo lường, bao gồm c&aacute;c kết quả của t&iacute;nh hợp lệ nội dung, x&acirc;y dựng độ tin cậy v&agrave; x&aacute;c định t&iacute;nh hợp lệ.</p> <p> <strong>Tổng quan về t&agrave;i liệu Quản l&yacute; chuỗi cung ứng bền vững</strong></p> <p> Mặc d&ugrave; cuộc tranh luận về quản l&yacute; chuỗi cung ứng bền vững (SSCM) vẫn đang được tiến h&agrave;nh, nhưng c&oacute; một sự nhất tr&iacute; chung về một số định nghĩa ch&iacute;nh. T&iacute;nh bền vững được coi l&agrave; một kh&aacute;i niệm quy chuẩn về c&aacute;ch con người phải đối xử với m&ocirc;i trường tự nhi&ecirc;n, v&agrave; c&aacute;ch thức họ thực hiện tr&aacute;ch nhiệm với nhau v&agrave; trong tương lai như thế n&agrave;o (Kates et al., 2001; Clark v&agrave; Dickson, 2003, Clark, 2007). Ph&aacute;t triển từ kh&aacute;i niệm bền vững, ph&aacute;t triển bền vững kh&ocirc;ng chỉ l&agrave; chương tr&igrave;nh nghị sự h&agrave;ng đầu của nhiều ch&iacute;nh phủ (Tan v&agrave; cộng sự, 2014) nhưng hiện đang được thảo luận rộng r&atilde;i trong nghi&ecirc;n cứu ch&iacute;nh s&aacute;ch (Swart and Raes, 2007; Jordan, 2008) v&agrave; quản l&yacute; kinh doanh nghi&ecirc;n cứu (Hall et al., 2010, Steurer et al, 2005). Cụ thể, ph&aacute;t triển bền vững l&agrave; &quot;một sự ph&aacute;t triển đ&aacute;p ứng nhu cầu của hiện tại m&agrave; kh&ocirc;ng ảnh hưởng đến khả năng của c&aacute;c thế hệ tương lai để đ&aacute;p ứngnhu cầu &quot;(WCED, 1987). &Aacute;p dụng c&aacute;c kh&aacute;i niệm về t&iacute;nh bền vững v&agrave; ph&aacute;t triển bền vững, SSCM đ&atilde; ph&aacute;t triển vượt ra khỏi bối cảnh truyền thống của quản l&yacute; chuỗi cung ứng (SCM), nhằm mục đ&iacute;ch tạo mối quan hệ giữa chuỗi cung ứng v&agrave; d&ograve;ng chảy của nguy&ecirc;n liệu v&agrave; th&ocirc;ng tin để tối đa ho&aacute; hiệu quả hoạt động v&agrave; t&iacute;nh dễ t&iacute;nh của chuỗi cung ứng (Lummus v&agrave; Vokurka, 1999, Li v&agrave; cộng sự, 2006, Mentzer v&agrave; cộng sự, 2001).</p> <p> So với SCM, SSCM c&oacute; nhiều kh&iacute;a cạnh v&agrave; kh&ocirc;ng chỉ tập trung v&agrave;o lợi nhuận (Seuring and Muller, 2008; Jennings v&agrave; Zandbergen, 1995; Gladwin v&agrave; cộng sự, 1995). Seuring and Muller (2008) cho rằng một chuỗi cung ứng thực sự bền vững c&oacute; thể tạo ra khả năng sinh lời l&acirc;u d&agrave;i m&agrave; kh&ocirc;ng g&acirc;y tổn hại cho hệ thống tự nhi&ecirc;n hay x&atilde; hội. Ti&ecirc;u chuẩn của ba ti&ecirc;u chuẩn được sử dụng để vận h&agrave;nh chuỗi gi&aacute; trị bền vững của chuỗi cung ứng bền vững bao gồm c&aacute;c kh&iacute;a cạnh kinh tế, m&ocirc;i trường v&agrave; x&atilde; hội (Carter and Rogers, 2008). Do đ&oacute; thuật ngữ SSCM đ&atilde; được x&aacute;c định bởi Carter v&agrave; Rogers (2008,</p> <p> p. 368) l&agrave; &quot;sự t&iacute;ch hợp chiến lược, minh bạch v&agrave; đạt được c&aacute;c mục ti&ecirc;u x&atilde; hội, m&ocirc;i trường v&agrave; kinh tế của tổ chức trong việc điều phối hệ thống c&aacute;c quy tr&igrave;nh kinh doanh tổ chức chủ chốt để cải thiện hiệu quả kinh tế d&agrave;i hạn của từng c&ocirc;ng ty v&agrave; chuỗi cung ứng&quot;.</p> <p> Tr&ecirc;n cơ sở nghi&ecirc;n cứu của GSCM v&agrave; CSR trong bối cảnh của chuỗi cung ứng, nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y cung cấp một thang đo mới để đ&aacute;nh gi&aacute; 8 thực tiễn quản l&yacute; tổng hợp. Cụ thể hơn, nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y xem SSCM l&agrave; một cấu tr&uacute;c to&agrave;n diện v&agrave; đa chiều được đo bằng 8 c&aacute;ch quản l&yacute; sau đ&acirc;y từ c&aacute;c nguy&ecirc;n tắc kh&aacute;c nhau: (1) Thiết kế Sản phẩm Bền vững (SPD); (2) Mua sắm M&ocirc;i trường (EP); (3) Hợp t&aacute;c kh&aacute;ch h&agrave;ng m&ocirc;i trường (ECC); (4) Quản l&yacute; Xanh Nội bộ (IGM); (5) Thu hồi Đầu tư (IR); (6) Quản l&yacute; Đa dạng (DM); (7) Ph&aacute;t triển cộng đồng v&agrave; sự tham gia (CDI); (8) Quản l&yacute; an to&agrave;n (SM).</p> <p> Để giải th&iacute;ch cấu tr&uacute;c ph&acirc;n cấp của kh&aacute;i niệm n&agrave;y, SSCM được vận h&agrave;nh như một cấu tr&uacute;c thứ ba. Theo Oliveira v&agrave; Roth (2012), kh&aacute;i niệm x&acirc;y dựng thứ ba rất hữu &iacute;ch để m&ocirc; tả c&aacute;c hiện tượng phức tạp v&agrave; n&oacute; được sử dụng rộng r&atilde;i trong c&aacute;c t&agrave;i liệu tiếp thị (Brady and Cronin, 2001, Ko and Pastore, 2005, Ranjan and Read, 2014). C&aacute;c thực tiễn c&aacute; nh&acirc;n được thể hiện bằng c&aacute;c chỉ số (nghĩa l&agrave; c&aacute;c bảng c&acirc;u hỏi), v&agrave; thực tiễn quản l&yacute; đầu ti&ecirc;n được đo bằng c&aacute;c chỉ số li&ecirc;n quan n&agrave;y. Dựa tr&ecirc;n sự giống nhau của thực tiễn quản l&yacute; thứ nhất (v&iacute; dụ như c&aacute;c tham số), c&aacute;c g&oacute;i thực tiễn thứ hai được kh&aacute;i niệm h&oacute;a. Như Zhu et al. (2008b) v&agrave; Jabbour et al. (2014) đ&atilde; x&aacute;c nhận cấu tr&uacute;c thứ tự thứ hai của GSCM, cần mở rộng kh&aacute;i niệm SSCM th&agrave;nh cấu tr&uacute;c bậc cao hơn. Theo định nghĩa của SSCM v&agrave; ti&ecirc;u chuẩn của ba d&ograve;ng dưới, nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y cho rằng SSCM l&agrave; một kh&aacute;i niệm đa chiều xem x&eacute;t cả hai vấn đề m&ocirc;i trường v&agrave; x&atilde; hội./</p> <p> Nguyễn Huy Tu&acirc;n</p>