0236.3650403 (128)

QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN TQM TRONG CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA


<p> M&ocirc;i trường m&agrave; c&aacute;c c&ocirc;ng ty hoạt động ng&agrave;y nay đang thay đổi v&agrave; năng động; v&agrave; do đ&oacute;, sống s&oacute;t trong đ&oacute; trở th&agrave;nh mục ti&ecirc;u ch&iacute;nh của c&ocirc;ng ty (Millson v&agrave; Wilemon, 2002; Ali, 2000; Garrett et al., 2009). C&aacute;c c&ocirc;ng ty đa quốc gia (MNC) được coi l&agrave; c&oacute; cơ hội tốt hơn để tiếp thu v&agrave; khai th&aacute;c kiến thức so với c&aacute;c tổ chức trong nước kể từ khi họ mở ra cho những trải nghiệm mới, thị trường, văn h&oacute;a v&agrave; &yacute; tưởng (Bonache v&agrave; Z&aacute;rraga-Oberty, 2008). Nhiều l&yacute; thuyết tổ chức đ&atilde; được h&igrave;nh th&agrave;nh dọc theo nền kinh tế dựa tr&ecirc;n tri thức gần đ&acirc;y, t&igrave;m kiếm một c&acirc;u trả lời cho c&aacute;c th&ocirc;ng tin hiệu quả nhất của tổ chức để đối ph&oacute; với c&aacute;c y&ecirc;u cầu thay đổi. B&agrave;i viết n&agrave;y dựa tr&ecirc;n quan điểm quản trị tri thức v&agrave; quản trị chất lượng của Deming(1981). Cả hai phương ph&aacute;p đều ưu ti&ecirc;n học tập v&agrave; cải tiến tổ chức như một c&ocirc;ng cụ hiệu quả để gi&aacute;m s&aacute;t m&ocirc;i trường b&ecirc;n trong v&agrave; b&ecirc;n ngo&agrave;i, sau đ&oacute; tạo ra hiệu suất.</p> <p> Kết luận chung về quản l&yacute; chất lượng tổng thể (TQM) v&agrave; t&agrave;i liệu hiệu suất tổ chức cho thấy c&aacute;c tương t&aacute;c t&iacute;ch cực. Việc thực hiện TQM l&agrave; một nguồn lợi thế cạnh tranh ch&iacute;nh (Terziovski v&agrave; Samson, 2000; MartinezLorente v&agrave; cộng sự, 2000). Mặc d&ugrave; quản l&yacute; chất lượng l&agrave; yếu tố quyết định th&agrave;nh c&ocirc;ng trong m&ocirc;i trường cạnh tranh như hiện nay, theo một số t&aacute;c giả (Slater v&agrave; Narver, 1995; Andreu v&agrave; Ciborra, 1996; Baker v&agrave; Sinkula, 1999; Akg&uuml;n et al., 2006; Barney, 1991) cho rằng học tập l&agrave; cơ chế nguồn cạnh tranh c&oacute; ảnh hưởng nhất. Tuy nhi&ecirc;n, c&aacute;c t&agrave;i liệu nghi&ecirc;n cứu quan niệm của họ l&agrave; khan hiếm. Nội dung n&agrave;y đề cập đến một nghi&ecirc;n cứu thực nghiệm giải quyết hiệu quả đồng thời của cả TQM v&agrave; khả năng học tập đối với hiệu suất của c&ocirc;ng ty. Ch&iacute;nh x&aacute;c hơn, mục đ&iacute;ch ch&iacute;nh của đ&oacute;ng g&oacute;p n&agrave;y l&agrave; để ph&acirc;n t&iacute;ch theo kinh nghiệm nếu khả năng học tập của tổ chức v&agrave; TQM đồng thời ảnh hưởng đến hiệu suất của c&ocirc;ng ty. Điều n&agrave;y c&oacute; nghĩa l&agrave; kiểm tra xem TQM c&oacute; th&uacute;c đẩy hiệu suất th&ocirc;ng qua n&acirc;ng cao năng lực học tập của tổ chức hay kh&ocirc;ng. Ngo&agrave;i ra, c&aacute;c t&aacute;c động trực tiếp của TQM v&agrave; khả năng khai th&aacute;c / thăm d&ograve; trong hoạt động của tổ chức được nghi&ecirc;n cứu. Khi l&agrave;m như vậy, một m&ocirc; h&igrave;nh đề xuất giải th&iacute;ch c&aacute;c mối quan hệ n&agrave;y được kiểm tra theo kinh nghiệm.</p> <p> C&aacute;c MNC được coi l&agrave; c&oacute; cơ hội tiếp thu v&agrave; khai th&aacute;c kiến thức tốt hơn c&aacute;c tổ chức trong nước v&igrave; họ tiếp x&uacute;c với c&aacute;c nguồn kiến thức kh&aacute;c nhau ở c&aacute;c quốc gia kh&aacute;c nhau (nh&agrave; cung cấp nước ngo&agrave;i, kh&aacute;ch h&agrave;ng, năng lực, tổ chức, v.v.). Một số t&aacute;c giả thậm ch&iacute; c&ograve;n khẳng định rằng c&oacute; một mối quan hệ giữa mức độ quốc tế h&oacute;a v&agrave; kết quả (Riahi-Belkaoui, 1998; Gomes v&agrave; Ramaswamy, 1999), điều đ&oacute; cho thấy MNC c&oacute; thể đạt được lợi thế cạnh tranh tốt hơn so với c&aacute;c c&ocirc;ng ty địa phương. Việc triển khai TQM c&oacute; thể cung cấp cho MNC một triết l&yacute; tập trung v&agrave;o sự h&agrave;i l&ograve;ng của kh&aacute;ch h&agrave;ng, cải tiến li&ecirc;n tục v&agrave; kh&aacute;i niệm về to&agrave;n bộ c&ocirc;ng ty (Dean v&agrave; Snell, 1991), để ph&aacute;t triển c&aacute;c sản phẩm v&agrave; quy tr&igrave;nh th&agrave;nh c&ocirc;ng cho c&aacute;c thị trường v&agrave; quốc gia kh&aacute;c nhau.</p> <p> Mối quan hệ giữa TQM v&agrave; kết quả của tổ chức theo Flynn et al. (1994), TQM c&oacute; thể được định nghĩa l&agrave; một nỗ lực t&iacute;ch hợp để đạt được v&agrave; duy tr&igrave; c&aacute;c sản phẩm chất lượng cao dựa tr&ecirc;n việc duy tr&igrave; cải tiến quy tr&igrave;nh li&ecirc;n tục v&agrave; ngăn ngừa lỗi, ở tất cả c&aacute;c cấp v&agrave; trong tất cả c&aacute;c chức năng của tổ chức, với mục đ&iacute;ch đạt v&agrave; thậm ch&iacute; vượt qu&aacute; mong đợi của kh&aacute;ch h&agrave;ng. Tr&ecirc;n thực tế, c&aacute;c định nghĩa kh&aacute;c nhau về TQM chỉ ra rằng n&oacute; c&ograve;n hơn cả c&aacute;c c&ocirc;ng cụ hoặc kỹ thuật đơn giản.Đ&oacute; l&agrave; một triết l&yacute; quản l&yacute; (Vanichchinchai v&agrave; Igel, 2011). Triết l&yacute; quản l&yacute; n&agrave;y đ&atilde; truyền cảm hứng cho c&aacute;c m&ocirc; h&igrave;nh kh&aacute;c nhau li&ecirc;n quan đến giải thưởng chất lượng ở c&aacute;c quốc gia kh&aacute;c nhau. Giải thưởng Chất lượng Malcolm Baldrige ở Hoa Kỳ hoặc EFQM ở Ch&acirc;u &Acirc;u nắm bắt c&aacute;c kh&iacute;a cạnh ch&iacute;nh của TQM.</p> <p> C&aacute;c c&ocirc;ng ty h&agrave;ng đầu &aacute;p dụng TQM để tăng cường hiệu quả tổ chức của họ (Vanichchinchai v&agrave; Igel, 2011). Nh&igrave;n chung, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu đ&atilde; kết luận rằng TQM c&oacute; t&aacute;c động t&iacute;ch cực đến kết quả của c&ocirc;ng ty. Trong t&agrave;i liệu li&ecirc;n quan đến vấn đề n&agrave;y, người ta c&oacute; thể t&igrave;m thấy c&aacute;c b&agrave;i b&aacute;o ph&acirc;n t&iacute;ch mối quan hệ giữa TQM v&agrave; chất lượng sản phẩm v&agrave; c&aacute;c kết quả phi t&agrave;i ch&iacute;nh kh&aacute;c (Choi v&agrave; Eboch, 1998; Dow v&agrave; cộng sự, 1999; Terziovski v&agrave; Samson, 1999; Terziovski v&agrave; Samson, 2000). Những người kh&aacute;c đ&atilde; nghi&ecirc;n cứu ảnh hưởng đến kết quả t&agrave;i ch&iacute;nh (Easton v&agrave; Jarrell, 1998) v&agrave; cũng c&oacute; những b&agrave;i viết ph&acirc;n t&iacute;ch ảnh hưởng của TQM đến gi&aacute; trị thị trường chứng kho&aacute;n (Adams v&agrave; cộng sự, 1999; Hendricks v&agrave; Singhal, 2001). Zhang v&agrave; Xia (2013) đ&atilde; sao ch&eacute;p nghi&ecirc;n cứu theo chiều dọc của Hendricks v&agrave; Singhal (1997) để kh&aacute;m ph&aacute; xem kết quả c&oacute; c&ograve;n ph&ugrave; hợp hay kh&ocirc;ng v&agrave; thấy rằng kết quả phần lớn ph&ugrave; hợp. Đ&acirc;y l&agrave; một x&aacute;c nhận rằng TQM vẫn hữu &iacute;ch trong m&ocirc;i trường cạnh tranh mới.</p> <p> Khả năng khai th&aacute;c đ&oacute;ng vai tr&ograve; trung gian trong mối quan hệ giữa TQM v&agrave; kết quả của c&ocirc;ng ty. Ngược lại với khai th&aacute;c, thăm d&ograve; bắt đầu từ logic tạo ra kiến ​​thức mới v&agrave; năng lực chiến lược v&agrave; c&aacute;c c&ocirc;ng cụ mới; v&agrave; y&ecirc;u cầu tổ chức mới (Benner v&agrave; Tushman, 2003; Lynn et al., 1996). N&oacute; chủ yếu dựa v&agrave;o gia c&ocirc;ng v&agrave; phản &aacute;nh thử nghiệm c&aacute;c quỹ đạo c&ocirc;ng nghệ ho&agrave;n to&agrave;n kh&aacute;c nhau, hoặc thử nghiệm với c&aacute;c lựa chọn thay thế mới (Yamakawa et al., 2011). Hơn nữa, đ&ograve;i hỏi một h&igrave;nh thức tổ chức linh hoạt, văn h&oacute;a s&aacute;ng tạo v&agrave; khả năng đ&aacute;nh gi&aacute; cao kết quả l&acirc;u d&agrave;i v&agrave; kh&ocirc;ng chắc chắn. Thăm d&ograve; đ&atilde; được li&ecirc;n kết với c&aacute;c nền văn h&oacute;a linh hoạt v&agrave; phi tập trung (Benner v&agrave; Tushman, 2003), v&agrave; kết quả từ thử nghiệm, t&iacute;nh linh hoạt v&agrave; suy nghĩ kh&aacute;c biệt. Nhiều học giả đ&atilde; tranh luận về những t&aacute;c động m&agrave; việc thăm d&ograve; mang lại đối với hoạt động của tổ chức, v&igrave; đ&acirc;y l&agrave; một qu&aacute; tr&igrave;nh ph&aacute;t triển tri thức. Tuy nhi&ecirc;n, những người kh&aacute;c cho rằng đ&oacute; l&agrave; một hoạt động rủi ro v&agrave; kh&ocirc;ng chắc chắn, cho rằng việc tập trung qu&aacute; nhiều v&agrave;o thăm d&ograve; li&ecirc;n quan đến nhiều rủi ro (th&aacute;ng 3 năm 1991). Theo nghĩa n&agrave;y, Raisch et al. (2009) chỉ ra rằng việc tập trung v&agrave;o c&aacute;c hoạt động thăm d&ograve; c&oacute; khả năng th&uacute;c đẩy sự ph&aacute;t triển kiến ​​thức v&agrave; quy tr&igrave;nh mới, c&ocirc;ng ty bỏ b&ecirc; thăm d&ograve; v&agrave; tập trung v&agrave;o khai th&aacute;c c&oacute; thể thiếu khả năng th&iacute;ch ứng với m&ocirc;i trường ph&aacute;t triển. L&agrave;m mới c&aacute;c c&ocirc;ng ty bằng t&agrave;i sản c&ocirc;ng nghệ v&agrave; tổ chức c&oacute; thể dễ d&agrave;ng tăng hiệu suất của c&ocirc;ng ty th&ocirc;ng qua kiến ​​thức mới v&agrave; c&aacute;c t&agrave;i sản kh&aacute;c c&oacute; được. người ta lập luận rằng việc thăm d&ograve; c&oacute; thể bổ sung cho c&aacute;c hệ thống TQM, với c&aacute;c tương t&aacute;c t&iacute;ch cực giữa thực tiễn của cả hai mẫu. Tr&aacute;nh bẫy bẫy thất bại được định nghĩa trong Levinthal v&agrave; March (1993), khả năng thăm d&ograve; c&oacute; thể cung cấp những vấn đề c&ograve;n thiếu của thực tiễn TQM.</p> <p> Nguyễn Huy Tu&acirc;n</p>