0236.3650403 (128)

TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU


1. Nghiên cứu thị trường:

Nghiên cứu thị trường là hoạt động tiên quyết đầu tiên đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường nước ngoài. Đó là quá trình điều tra, khảo sát để tìm khả năng bán hàng đối với một hoặc một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Trong nghiên cứu thị trường xuất khẩu phải chỉ ra: Thị trường nào là có triển vọng nhất đối với sản phẩm của doanh nghiệp? Dung lượng thị trường là bao nhiêu? Sản phẩm cần có những thay đổi thích nghi gì đối với những đòi hỏi của thị trường? Sử dụng phương tiện quảng cáo và phương pháp xúc tiến nào? Chọn phương pháp bán nào là phù hợp.

Doanh nghiệp phải hiểu rõ điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, vận tải, tiền tệ, tập quán, thị hiếu, ước tính được dung lượng thị trường và sự biến động giá cả của mặt hàng xuất khẩu ở thị trường nước ngoài. Kết quả xuất khẩu phụ thuộc vào thương nhân cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn, vì vậy phải làm rõ thái độ chính trị, triết lý kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín của họ trên thị trường.

Để nghiên cứu được thị trường xuất khẩu phải nghiên cứu môi trường vĩ mô và vi mô.

2. Phân đoạn thị trường:

Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ rất rộng lớn. Để thâm nhập hay mở rộng vào thị trường nước ngoài, trước hết doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ về thị trường đó, môi trường hoạt động như thế nào, sau đó doanh nghiệp cần phải phân đoạn thị trường để có kế hoạch phục vụ vì doanh nghiệp sẽ không thể phục vụ được hết mọi khách hàng trong những thị trường xuất khẩu đó hay là mọi khách hàng không thể được phục vụ bằng cùng một cách tương tự như nhau bởi lẽ người mua thì quá nhiều, phân tán, lại khác biệt nhau về yêu cầu và thói quen mua sắm. Doanh nghiệp sẽ đạt được vị trí tốt hơn nếu chỉ phục vụ những phân đoạn đặc biệt nào đó của thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải xác định được những phần thị trường hấp dẫn nhất mà họ có thể phục vụ tốt nhất.

* Phân đoạn thị trường

Phân đoạn thị trường là phân chia thị trường thành những phần khác biệt (nhưng trong mỗi phần lại tương đối đồng nhất) bằng những tiêu thức thích hợp, qua đó doanh nghiệp có thể triển khai các hoạt động maketing phù hợp cho một hay một số phân đoạn thị trường, nhờ vậy  mà doanh nghiệp sẽ thõa mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng, thành đạt các mục tiêu maketing của mình.

* Các tiêu thức và phương pháp phân đoạn thị trường

Không có một cách duy nhất nào cho việc phân đoạn một thị trường. Người làm maketing phải thử nhiều phương pháp phân đoạn khác nhau, áp dụng riêng lẻ hoặc phối hợp để mong tìm ra một cách nhìn chính xác về cơ cấu thị trường. Ở đây chúng ta sẽ khảo sát những biến số chính thuộc về địa lí, dân số, tâm lí và thái độ ứng xử, được dùng trong việc phân đoạn thị trường.

- Phân đoạn theo địa lý.

Phương pháp này đòi hỏi chia thị trường thành những đơn vị địa lý khác nhau như quốc gia, khu vực, thành phố hay các vùng lân cận. Doanh nghiệp sẽ quyết định hoạt động trong một hay vài đơn vị địa lý đó, hoặc hoạt động trong một đơn vị nhưng có quan tâm đến những khác biệt trong sở thích và nhu cầu địa phương.

- Phân đoạn theo đặc điểm dân số học

Phương pháp này chia thị trường thành những nhóm dựa trên các tiêu thức về dân số học như độ tuổi, giới tính, nhân khẩu gia đình, chu kỳ sống gia đình, lợi tức, nghành nghề, học vấn, tôn giáo, chủng tộc và quốc tịch. Những tiêu thức về dân số này là những cơ sở thông dụng nhất để phân biệt những nhóm khách hàng. Lí do là ước muốn, sở thích mức sử dụng rất thường đồng bộ với những tiêu thức này. Một lí do khác là những tiêu thức về dân số này vốn dễ đo lường nhất. Thậm chí khi thị trường mục tiêu không được chia theo tiêu thức dân số học (như dựa vào cá tính chẳng hạn) thì việc đối chiếu với đặc điểm dân số cũng rất cần thiết để hiểu quy mô của thị trường đó để tìm cách thâm nhập nó một cách hiệu quả nhất.

Các đặc điểm nhân khẩu có thể sử dụng để phân đoạn là rất phong phú, bao gồm tuổi tác, giới tính, thu nhập, học vấn, nghề nghiệp…Tùy thuộc đặc điểm sản phẩm mà doanh nghiệp nên cân nhắc chọn lựa tiêu thức phân đoạn thích hợp và có thể sử dụng một hay nhiều tiêu thức để phân chia khách hàng.

- Phân đoạn theo tâm lí:

Trong cách này, khách mua được chia thành những nhóm khác nhau dựa trên tầng lớp xã hội, lối sống hoặc cá tính. Những người trong cùng một nhóm chia theo dân số lại có những điểm tâm lý rất khác nhau.

- Phân đoạn theo cách ứng xử

Trong phương pháp này, khách mua được chia thành những nhóm dựa trên kiến thức, thái độ, tình trạng sử dụng (không sử dụng, đã từng sử dụng, sử dụng lần đầu, sử dụng thường xuyên), mức độ sử dụng, hoặc phản ứng trước sản phẩm. Nhiều người làm maketing tin rằng các yếu tố dễ thay đổi về hành vi ứng xử là khởi điểm tốt nhất để hình thành các phân đoạn thị trường.

Trên thị trường xuất khẩu, phân đoạn thị trường là quá trình nhận biết các phân đoạn thị trường riêng biệt, có thể theo nhóm quốc gia hoặc nhóm khách hàng riêng lẻ của các khách hàng tiềm năng có các đặc điểm đồng nhất và có khuynh hướng biểu lộ các hành vi mua giống nhau. Người tiêu dùng ở từng khu vực trên thế giới có thể phân chia thành những nhóm có đặc tính và hành vi mua giống nhau. Và đặc biệt một số đặc điểm và hành vi đôi khi còn mang tính quốc tế và có thể sử dụng để thu hút và hấp dẫn khách hàng trên toàn thế giới. Đồng thời người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau trên thế giới đang ngày càng tìm kiếm sự đa dạng, và các phân đoạn thị trường mới tương tự như vậy dường như cũng xuất hiện ở nhiều thị trường. Xu hướng này cung cấp cho các doanh nghiệp theo đuổi một phân đoạn thị trường trên cơ sở quốc tế.

Ngày nay các công ty kinh doanh xuất khẩu thường phân đoạn thị trường theo một hoặc nhiều các tiêu thức sau: nhân khẩu học (cả thu nhập của quốc gia lẫn quy mô dân số), tâm lý học (thái độ, phong cách sống), các đặc điểm hàng vi và lợi ích tìm kiếm. Các công ty cũng có thể nhóm gộp các thị trường quốc gia khác nhau theo khía cạnh môi trường của chúng nhằm tạo ra các nhóm thị trường.

3.  Lựa chọn thị trường mục tiêu

Việc phân đoạn thị trường đã cho thấy những cơ hội ở từng phân đoạn thị trường đối với doanh nghiệp. Bây giờ doanh nghiệp phải quyết định: sẽ chọn bao nhiêu phân đoạn thị trường để phục vụ, làm sao xác định được những phân đoạn thị trường tốt nhất.

* Đánh giá các phân đoạn thị trường:

Khi đánh giá các phân đoạn thị trường khác nhau, doanh nghiệp phải xem xét 3 yếu tố: quy mô và mức tăng trưởng của từng phân đoạn thị trường , mức độ hấp dẫn về cơ cấu của phân đoạn thị trường, những mục tiêu và nguồn lực của doanh nghiệp.

- Quy mô và mức tăng trưởng của từng phân đoạn thị trường phải phù hợp với khả năng đáp ứng và quan điểm phục vụ của doanh nghiệp. Điều này phản ánh tiềm năng của thị trường. Để xác định tiềm năng cơ bản của thị trường sản phẩm là gì, thư viện là nơi tốt để bắt đầu.Chính phủ các nước  và các tổ chức quốc tế có sẵn nhiều ấn phẩm mang thông tin về tiềm năng thị trường. Nhiều nguồn thông tin điện tử được phát triển trong những năm gần đây. Chúng bao gồm các cơ sở dữ liệu công cộng như cơ sở dữ liệu thương mại quốc gia do Bộ thương mại quản lý.

- Mức độ hấp dẫn về cơ cấu của phân đoạn thị trường: Một phân đoạn thị trường có thể đạt quy mô và mức tăng trưởng mong muốn, nhưng lại thiếu khả năng sinh lời. Có các lực lượng quyết định mức độ hấp dẫn nội tại về lợi nhuận lâu dài của một thị trường mà doanh nghiệp phải đánh giá đầy đủ, đó là: các đối thủ cạnh tranh trong ngành, những kẻ thâm nhập tiềm ẩn, những sản phẩm thay thế, người cung ứng và người mua, những rào cản khi thâm nhập thị trường bao gồm những mục như: thuế nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hay hạn ngạch, những dàn xếp ưu tiên.

- Mục tiêu và nguồn lực của doanh nghiệp: ngay cả khi phân đoạn thị trường là hấp dẫn, doanh nghiệp cũng cần phải cân nhắc xem mỗi phân đoạn thị trường đó có phù hợp với mục tiêu và nguồn lực của doanh nghiệp hay không, đánh giá xem sản phẩm của công ty phù hợp tốt như thế nào với thị trường đang xem xét. Nói chung, một sản phẩm phù hợp với một thị trường nếu nó thõa mãn những tiêu chuẩn sau: (1) Sản phẩm có thể lôi kéo khách hàng trên thị trường tiềm năng, (2) Sản phẩm không đòi hỏi điều chỉnh cho thích hợp hơn về mặt kinh tế được quyết định bởi số sản phẩm bán trên thị trường tiềm năng, (3) Sự hạn chế nhập khẩu và/hoặc thuế quan cao không loại trừ sản phẩm hoặc làm cho nó quá đắt trên thị trường mục tiêu nằm trong phạm vi đòi hỏi của giá cạnh tranh, và (5) Chi phí tập hợp tài liệu bán hàng, catalog, tập san kỷ thuật không vượt quá phạm vi thị trường mục tiêu. Trường hợp không đáp ứng được mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp, thì phân đoạn thị trường hấp dẫn sẽ bị loại bỏ.

* Lựa chọn thị trường mục tiêu:

Dựa trên kết quả đánh giá các phân đoạn thị trường, tiếp theo doanh nghiệp phải tiến hành lựa chọn nên phục vụ bao nhiêu và những phân đoạn thị trường cụ thể nào. Có năm cách để xem xét lựa chọn thị trường mục tiêu đó là: tập trung vào một phân đoạn thị trường, chuyên môn hóa có chọn lọc, chuyên môn hóa sản phẩm, chuyên môn hóa thị trường và phục vụ toàn bộ thị trường

-         Tập trung vào một phân đoạn thị trường: đây là trường hợp doanh nghiệp chọn phục vụ một phân đoạn thị trường duy nhất do khả năng hạn chế của mình. Doanh nghiệp tìm cách đạt được một phần lớn trong một thị trường nhỏ. Thông qua marketing tập trung, doanh nghiệp có thể dành được một vị trí vững chắc trong phân đoạn thị trường đã chọn nhờ sự am hiểu hơn về nhu cầu của phân đoạn thị trường này và tiết kiệm được chi phí hoạt động do chuyên môn hóa sản xuất, phân phối và khuyến mãi.

-         Chuyên môn hóa có chọn lọc: doanh nghiệp lựa chọn một số phân đoạn thị trường, mỗi phân đoạn thị trường đều có sức hấp dẫn và phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp, các phân đoạn thị trường này đều hứa hẹn khả năng sinh lời. Chiến lược lựa chọn phục vụ này làm giảm bớt rủi ro cho doanh nghiệp.

-         Chuyên môn hóa thị trường: doanh nghiệp tập trung vào việc phục vụ nhiều nhu cầu của một nhóm khách hàng nhất định. Nhờ chuyên môn hóa vào việc phục vụ một nhóm khách hàng, doanh nghiệp có thể đạt được danh tiếng và trở thành kênh phân phối cho tất cả các sản phẩm mới mà nhóm khách hàng này có thể yêu cầu.

-         Chuyên môn hóa sản phẩm:doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm nhất định để bán cho một số phân đoạn thị trường. Thông qua chiến lược này, doanh nghiệp có thể tạo dựng uy tín trong lĩnh vực sản phẩm chuyên dụng.

-         Phục vụ toàn bộ thị trường: doanh nghiệp chủ trương phục vụ tất cả các nhóm khách hàng tất cả những sản phẩm mà họ cần đến. Chỉ có những công ty lớn mới có đủ khả năng thực hiện phục vụ toàn bộ thị trường.

4. Xác định chiến lược phát triển và thâm nhập thị trường mục tiêu:

Sau khi lựa chọn được các thị trường muc tiêu, doanh nghiệp cần xác định các chiến lược để phát triển thị trường mục tiêu đó. Khi định hướng cho phát triển thị trường hàng hóa xuất khẩu, doanh nghiệp có thể phát triển theo chiều rộng hay chiều sâu hoặc cùng một lúc phát triển theo cả hai hướng này gọi là đa dạng hóa.

Có các dạng chiến lược sau:

Thứ nhất, chiến lược phát triển thị trường theo chiều sâu: Phát triển theo chiều sâu về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm những việc như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng chất xám cao, đưa ra thị trường ngày càng nhiều sản phẩm dựa trên nhu cầu đa dạng, mong muốn thõa mãn và khả năng thanh toán của con người trong một xã hội phát triển. Sự phát triển của khoa học kỷ thuật và công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất những sản phẩm đa dạng trên để đáp ứng nhu cầu của con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng hóa trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hay một đất nước nào phát hiện, khơi gợi, nắm bắt nhu cầu và thõa mãn nhu cầu đó với chất lượng cao thì sẽ chiến thắng trên thị trường. Doanh nghiệp có thể phát triển trên các mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể được thực hiện theo cách cắt lớp, phân đoạn thị trường để thõa mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng. Doanh nghiệp chỉ lựa chọn và áp dụng chính sách marketing trên số ít thị trường. Chiến lược này sẽ làm cho việc phân chia thị trường rõ nét hơn và cũng cố được vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường đó.   

Thứ hai, chiến lược phát triển thị trường theo chiều rộng: Phát triển theo chiều rộng là việc thể hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Đồng thời việc phát triển theo chiều rộng còn bao gồm cả việc phát triển về mặt không gian và phạm vi địa lý. Doanh nghiệp thâm nhập thêm vào những thị trường mới những khách hàng mới có cùng nhu cầu về loại sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Như vậy, đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó.

 Chiến lược này dẫn đến sự lựa chọn thị trường ở các cấp độ khác nhau về hiệu quả hoạt động và làm phức tạp thị trường. 

Thứ ba, chiến lược đa dạng hóa: Đa dạng hóa thị trường là hình thức phát triển thị trường một cách hỗn hợp vừa thâm nhập vào các thị trường mới vừa nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển sản phẩm để mở rộng thị trường hiện tại, phát triển về mặt hàng có thể thực hiện về lượng và về chất. Tức là phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng hóa trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng. Và phát triển trên các mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường.

5. Các giải pháp marketing tiếp cận thị trường mục tiêu:

-  Chính sách sản phẩm:

Trên thị trường nước ngoài, các quyết định về sản phẩm rất phức tạp do nhu cầu và môi trường khác nhau. Khi xác lập chiến lược sản phẩm, nhất thiết phải phân tích và tôn trọng các quy định nhằm bảo đảm an toàn lao động, sức khỏe và bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp cũng cần kiểm tra các đặc tính thương mại của sản phẩm để nhằm thích nghi với môi trường thể chế.

Chiến lược sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải đặt vấn đề có tồn tại một tiềm năng phát triển, đối với mỗi sản phẩm, trên thị trường thế giới hay không? Câu trả lời phụ thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp và khả năng nắm bắt cơ hội. Trên thực tế, vấn đề quan trọng của chiến lược sản phẩm là lựa chọn giữa tiêu chuẩn hóa hay thích nghi hóa. Chiến lược tiêu chuẩn hóa sản phẩm biểu hiện ở việc bán ra thị trường bên ngoài những sản phẩm giống nhau hay đồng nhất về các yếu tố vật chất như kích cỡ, màu sắc, bao bì và các dịch vụ hỗ trợ. Chiến lược thích ứng hóa sản phẩm được thể hiện ở việc thay đổi sản phẩm tiêu thụ trên các thị trường nước ngoài. Quyết định thay đổi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sở thích của người tiêu dùng nước ngoài, khả năng và chi phí cải biến sản phẩm, các quy định và thể chế của nước nhập khẩu, hàng rào phi quan thuế... Trong hoạt động xuất khẩu, người xuất khẩu cũng phải tính đến thái độ đối với sản phẩm nhập khẩu của người tiêu dùng địa phương và đưa ra các giải pháp cần thiết.

-         Chính sách giá:

Doanh nghiệp phải đưa ra các quyết định về giá ban đầu cho các đối tượng khách hàng khác nhau, về thay đổi giá hiện tại, về giá cho chủng loại sản phẩm, về hình thức và mức độ kiểm soát về giá trên các thị trường nước ngoài khác nhau, về giá chu chuyển nội bộ trong doanh nghiệp và về mức độ khác biệt giữa giá nội địa và giá xuất khẩu . Để có được một chính sách giá đúng đắn, cần hiểu các yếu tố cơ bản tác động đến giá:

- Chi phí: giá sẽ chênh lệch giữa các thị trường do chi phí vận chuyển và chi phí thâm nhập thị trường khác nhau.

- Cầu trên thị trường: có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhân khẩu học, phong tục, tập quán trong trao đổi và tiêu dùng, điều kiện kinh tế...

- Cạnh tranh: doanh nghiệp phải biết chính sách giá của cạnh tranh và đánh giá khả năng phản ứng và hành vi của họ.

- Điều kiện môi trường của thị trường: sự can thiệp của chính quyền sở tại về giá, quy định chống bán phá giá, chính sách thuế nhập khẩu...

- Mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp

Khi xác lập chiến lược giá cho sản phẩm, doanh nghiệp có thể lựa chọn giữa chiến lược giá cao và chiến lược giá thấp (giá thâm nhập). Chiến lược giá cao được áp dụng trong các điều kiện chí phí quá cao, sản phẩm không có tương lai vững chắc trên thị trường, cầu ít co giãn, môi trường không ổn định. Ngược lại, các doanh nghiệp thường áp dụng chiến lược giá thấp khi có các điều kiện như chi phí sản xuất thấp, độ co giãn của cầu so với giá cao, cạnh tranh mạnh.

-         Chính sách truyền thông cỗ động:

Doanh nghiệp cần phải đưa ra quyết định lựa chọn biểu tượng: màu sắc, nội dung biểu tượng. Những vấn đề trên rất quan trọng vì trên thị trường nước ngoài, có nhiều nguyên nhân làm giảm hiệu quả truyền tin như: thông điệp không đến người nhận, thông điệp không được hiểu đúng, không đủ sức thuyết phục.

Cũng như trên thị trường nội địa, doanh nghiệp có thể lựa chọn và sử dụng các kỹ thuật xác tiến hỗn hợp khác nhau. Đối với hàng công nghiệp, bán hàng trực tiếp và quảng cáo qua hội chợ triễn lãm có vị trí quan trọng. Đối với hàng tiêu dùng, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và khuyến mại thường có hiệu quả cao hơn.

Việc xác định chiến lược truyền thông quốc tế bao gồm ba nội dung cơ bản:

- Truyền tin theo loại sản phẩm: Đối với hàng tiêu dùng, mục tiêu truyền tin là kích thích tiêu dùng sản phẩm và vì vậy đối tượng truyền tin phải là sản phẩm hay nhãn hiệu. Truyền tin sản phẩm là truyền tin khách quan về sự hoàn thiện, tính vượt trội của sản phẩm. Truyền tin nhãn hiệu là truyền tin hình tượng được xây dựng từ định vị sản phẩm.

- Xác định cấp độ quốc tế hóa của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chỉ sử dụng các công cụ truyền tin kỹ thuật- thương mại như: catalog, tờ gấp hay tài liệu giới thiệu về sản phẩm và doanh nghiệp.

- Chiến lược tiêu chuẩn hóa hay thích nghi hóa truyền tin: thích nghi hóa truyền tin là doanh nghiệp dành cho các chi nhánh ở nước ngoài quyền xác định chiến lược truyền tin và vì vậy chiến lược truyền tin giữa các thị trường khác nhau sẽ có sự độc lập đáng kể. Chiến lược tiêu chuẩn hóa truyền tin được thể hiện ở việc sử dụng cùng một chiến lược thống nhất trên toàn bộ thị trường hay trên một vùng địa lý nhất định.

- Chính sách phân phối:

Doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý được hệ thống kênh phân phối để đưa sản phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường. Những quyết định về kênh phân phối thường khó khăn và phức tạp đối với doanh nghiệp. Tham gia vào kênh phân phối có các thành viên của kênh bao gồm: nhà sản xuất, các trung gian thương mại, người tiêu dùng cuối cùng. Các trung gian thương mại tham gia vào kênh do họ thực hiện các chức năng phân phối tốt hơn nhà sản xuất. Mỗi hệ thống kênh phân phối đều có cấu trúc riêng của nó qua chiều dài của kênh, vì vậy hình thành nên các kiểu kênh marketing khác nhau. Các kênh phân phối có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua nhiều cấp độ trung gian. Số trung gian thương mại ở mỗi cấp độ trong kênh cũng có thể thay đổi từ nhiều đến ít hay chỉ một trung gian thương mại duy nhất trên một khu vực thị trường

Doanh nghiệp phải lựa chọn kênh phân phối tối ưu cho sản phẩm của mình. Có nhiều căn cứ doanh nghiệp phải tính đến khi lựa chọn kênh phân phối thích hợp như: đặc điểm của sản phẩm, đặc điểm của thị trường, đặc điểm của các trung gian thương mại, khả năng nguồn lực của doanh nghiệp ..Doanh nghiệp có thể sử dụng đồng thời nhiều kênh phân phối để khai thác thị trường mục tiêu.

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ TIẾN