Những nét cơ bản về bộ tiêu chuẩn ISO 14000
GV : Lê Thị Kiều My
1. Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for Standardization, viết tắt là ISO) là một tổ chức quốc tế độc lập, phi chính phủ gồm 163 thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia. Thông qua các thành viên, ISO tập hợp các chuyên gia để cùng chia sẻ kiến thức và xây dựng tiêu chuẩn quốc tế tự nguyện, dựa trên sự đồng thuận và thích hợp với thị trường, hỗ trợ đổi mới và cung cấp giải pháp đối với các thách thức toàn cầu.
Tiêu chuẩn quốc tế đưa ra quy định kỹ thuật cấp thế giới cho sản phẩm, dịch vụ và hệ thống để đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu quả. Các tiêu chuẩn là công cụ tạo thuận lợi thương mại quốc tế. Hiện nay, ISO đã công bố hơn 21.478 tiêu chuẩn quốc tế và các tài liệu liên quan, bao trùm gần như tất cả các ngành công nghiệp, từ công nghệ tới an toàn thực phẩm, nông nghiệp và chăm sóc sức khỏe. Tiêu chuẩn quốc tế ISO tác động tới mọi người, mọi nơi.
ISO được thành lập năm 1946 khi đoàn đại biểu từ 25 quốc gia gặp mặt tại Hiệp hội kỹ sư xây dựng ở Luân Đôn và quyết định thành lập một tổ chức quốc tế “để tạo thuận lợi cho hợp tác và thống nhất quốc tế các tiêu chuẩn công nghiệp”. Vào ngày 23/2/1947, tổ chức mới, ISO, chính thức bắt đầu hoạt động. Cơ cấu tổ chức của ISO bao gồm:
- Đại Hội đồng (General Assembly): là cơ quan có thẩm quyền cao nhất đối với tất cả các công việc của ISO. Đại hội đồng họp toàn thể mỗi năm một lần, gồm tất cả các nước thành viên và quan chức của ISO;
- Hội đồng ISO (ISO Council): chịu trách nhiệm về hầu hết các vấn đề quản lý. Hội đồng họp một năm hai lần gồm 20 thành viên được Đại Hội đồng ISO bầu ra, các cán bộ của ISO và Chủ tịch Uỷ ban Phát triển chính sách (CASCO, COPOLCO, DEVCO);
- Ban Quản lý Kỹ thuật (Technical Management Board - TMB): quản lý các hoạt động kỹ thuật. Cơ quan này cũng chịu trách nhiệm về các Ban kỹ thuật tiêu chuẩn và ban cố vấn chiến lược;
- Ban Thư ký Trung tâm (Central Secretariat): do Tổng Thư ký điều hành;
- Các Ban Kỹ thuật/Tiểu ban kỹ thuật (Technical Committees/Sub - Committees - ISO/TCs/SCs): tiến hành nghiên cứu, xây dựng các tiêu chuẩn và tài liệu dạng tiêu chuẩn của ISO.
Các thành viên của ISO là các tổ chức tiêu chuẩn hàng đầu các nước và mỗi quốc gia chỉ có một thành viên đại diện. Mỗi thành viên đại diện cho ISO trong nước của mình. Các cá nhân hoặc công ty không thể giữ vai trò thành viên ISO.
ISO có ba loại hình thành viên. Mỗi loại đều có một mức độ tiếp cận và ảnh hưởng khác nhau đối với hệ thống ISO. Trong số 163 thành viên của ISO, có 119 thành viên đầy đủ, 40 thành viên thông tấn và 4 thành viên đăng ký. Điều này giúp ISO tính đến cũng như nhận diện các nhu cầu và năng lực khác nhau của mỗi cơ quan tiêu chuẩn quốc gia.
Thành viên đầy đủ ảnh hưởng đến chiến lược và việc xây dựng tiêu chuẩn ISO bằng cách tham gia và bỏ phiếu trong các cuộc họp về chính sách và kỹ thuật của ISO. Thành viên đầy đủ có quyền bán và chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế ISO tại quốc gia mình.
Thành viên thông tấn tham gia việc xây dựng tiêu chuẩn và chiến lược của ISO bằng cách tham dự các cuộc họp về chính sách và kỹ thuật ISO với tư cách quan sát viên. Các thành viên thông tấn có thể bán và chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế ISO tại quốc gia.
Thành viên đăng ký duy trì việc cập nhật về công việc của ISO nhưng không thể tham gia. Họ không được bán hoặc chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế ISO tại quốc gia.
Ngoài ra còn có 711 tổ chức quốc tế có quan hệ với các Ban Kỹ thuật và Tiểu ban kỹ thuật của ISO.
Hoạt động kỹ thuật của ISO được triển khai bởi 3.555 đơn vị kỹ thuật, trong đó có 247 ban kỹ thuật (TC), 508 tiểu ban kỹ thuật, 2.674 nhóm công tác và 126 nhóm đặc biệt. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, ISO đã xây dựng được 21.478 tiêu chuẩn quốc tế và các tài liệu dạng tiêu chuẩn, trong đó có 27,3% về công nghệ kỹ thuật; 21,8% về công nghệ vật liệu; 17,7% về điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông; 10,7% về giao thông vận tải và phân phối hàng hóa; 9,3% về các lĩnh vực chung, cơ sở hạ tầng, khoa học và dịch vụ; 5,6% về nông nghiệp và công nghệ thực phẩm; 4,1% về y tế, sức khỏe và môi trường; 2,5 % về xây dựng và 1,0% về công nghệ đặc biệt. Trong năm 2016, ISO đã tổ chức 1.509 cuộc họp kỹ thuật tại 45 quốc gia, xử lý 4.997 hạng mục công việc với 1.648 hạng mục công việc trong giai đoạn chuẩn bị + 754 dự thảo ban kỹ thuật + 2595 dự thảo tiêu chuẩn quốc tế (DIS) và dự thảo cuối tiêu chuẩn quốc tế (FDIS). công bố 1.381 tiêu chuẩn quốc tế và tài liệu dạng tiêu chuẩn.
Việt Nam (đại diện là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) tham gia ISO từ năm 1977 và đã có những đóng góp nhất định cho tổ chức này. Việt Nam đã tham gia Hội đồng ISO trong 3 nhiệm kỳ: 1997 - 1998, 2001 - 2002 và 2004 - 2005; hiện tham gia với tư cách thành viên P (Thành viên chính thức) trong 17 Ban kỹ thuật và Tiểu ban Kỹ thuật của ISO; tham gia với tư cách thành viên O (Thành viên quan sát) trong 70 Ban kỹ thuật và Tiểu ban Kỹ thuật của ISO; là thành viên P của 2 ban phát triển chính sách của ISO: DEVCO (Ban về những vấn đề của các nước đang phát triển), CASCO (Ban Tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp); thành viên O của Ban Chính sách người tiêu dùng COPOLCO và Ban Mẫu chuẩn (REMCO).
2. Sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO 14000
Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức vào tháng 6/1992 tại Rio De Janero Brazil đã đặt ra các vấn đề khẩn cấp về môi trường và bảo vệ môi trường trên phạm vi toàn cầu. Tiếp sau Hội nghị Rio 1992, việc xây dựng các tiêu chuẩn về môi trường cũng đã được nêu ra tại hội nghị bàn tròn Urugoay của Hiệp định chung về Thuế quan và mậu dịch (GATT) - tiền thân của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tại hội nghị này các nhà đàm phán của các nước thành viên đã thống nhất rằng tiêu chuẩn hóa việc quản lý môi trường sẽ là một đóng góp tích cực cho cho mục tiêu ngăn ngừa ô nhiễm mội trường và gỡ bỏ các cản kỹ thuật quan trong trong thương mại.
Trong bối cảnh đó và căn cứ vào các khuyến nghị của Nhóm tư vấn chiến lược về môi trường của ISO/IEC (SAGE), năm 1993, ISO đã quyết định thành lập Ban kỹ thuật ISO/TC 207 về quản lý môi trường để xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế về quản ý môi trường bao gồm các tiêu chuẩn về hệ thống và các công cụ quản lý môi trường, các phương pháp xác định tác nhân gây ô nhiễm, giá trị giới hạn đối với chất thải, tác động của công nghệ/sản phẩm đối với môi trường. Các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực quản lý môi trường được tập hợp thành bộ tiêu chuẩn ISO 14000.
Cơ cấu của Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được thiết kế theo 3 mảng nội dung chính bao gồm: Hệ thống quản lý; Các công cụ đánh giá và kiểm tra; và Các công cụ hỗ trợ định hướng sản phẩm.
Cho đến nay ISO đã ban hành được 17 tiêu chuẩn (không kể các tài liệu dạng khác) trong đó có 04 tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường (ISO 14001; ISO 1404; ISO 1405; ISO 1406); 01 tiêu chẩn về kiểm toán môi trường (ISO 14015); 05 tiêu chuẩn về nhãn môi trường (ISO 14020; ISO 14021; ISO 14024; ISO 14025; ISO 14026); 03 tiêu chuẩn về đánh giá kết quả hoạt động môi trường (ISO 14031; ISO 14034; ISO 14063); 04 tiêu chuẩn về đánh giá vòng đời của sản phẩm (ISO 14040; ISO 14044; ISO 14045; ISO 14046); 04 tiêu chẩn về các vấn đề có liên quan đến quản lý môi trường (ISO 14050; ISO 14051; ISO 14052; ISO 14055-1); 05 tiêu chuẩn về quản lý khí nhà kính (ISO 14064-1; ISO 14064-2; ISO 14064-3; ISO 14065; ISO 14066) thuộc bộ tiêu chuẩn ISO 14000 về quản lý môi trường, trong đó tiêu chuẩn ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường là tiêu chuẩn được ban hành đầu tiên vào năm 1996.
3. Phạm vi, mục đích, đối tượng áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000
ISO 14000 là bộ tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý môi trường (EMS) do ISO xây dựng và ban hành nhằm đưa ra các chuẩn mực để xác định, kiểm soát và theo dõi những ảnh hưởng của tổ chức, doanh nghiệp đến môi trường. Từ đó, giảm thiểu các tác động gây tổn hại đến môi trường cũng như đưa ra phương pháp quản lý và cải tiến hệ thống quản lý môi trường cho bất kỳ tổ chức, doanh nghiệp nào áp dụng nó.
Mục đích của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là đưa cho các tổ chức một khuôn khổ để bảo vệ môi trường và ứng phó với các điều kiện môi trường biến đổi cân bằng với các nhu cầu về kinh tế - xã hội. Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu cho phép một tổ chức đạt được các kết quả dự kiến đặt ra đối với hệ thống quản lý môi trường của mình.
Cách tiếp cận có hệ thống để quản lý môi trường có thể cung cấp cho cấp quản lý cao nhất các thông tin để xây dựng thành công trong thời gian dài và tạo ra các lựa chọn để đóng góp vào sự phát triển bền vững.
Tiêu chuẩn này, cũng như các tiêu chuẩn khác, không nhằm mục đích nâng cao hoặc thay đổi các yêu cầu pháp lý của tổ chức.
Tiêu chuẩn này có thể áp dụng được cho mọi tổ chức, không phân biệt quy mô, loại hình và bản chất, và vận dụng vào các khía cạnh môi trường nảy sinh từ các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ do một tổ chức xác định mình có thể kiểm soát hoặc gây ảnh hưởng có cân nhắc đến quan điểm về vòng đời. Tiêu chuẩn này không nêu ra các chuẩn mực cụ thể về kết quả hoạt động môi trường.
Các tiêu chuẩn trong bộ tiêu chuẩn này được thiết lập dành do:
- Các hệ thống quản lý môi trường (Environmental Management Systems): ISO 14001, ISO 14004.
- Các đánh giá về môi trường (Environmental Auditing): ISO 14010, ISO 14011, ISO 14012.
- Các đánh giá về hoạt động môi trường (Environmental Performance Evaluation): ISO 14021.
- Nhãn môi trường (Environmental Labeling): ISO 14020, ISO 14021, ISO 14022, ISO 14023, ISO 14024.
- Đánh giá vòng đời (Life-cycle Assessment): ISO 14040, ISO 14041, ISO 14042, ISO 14043.
- Các khía cạnh môi trường trong các tiêu chuẩn về sản phẩm (Environmental Aspects in Product Standards): ISO 14060.
Tài liệu tham khảo
[1] ISO 14001:2015 bản tiếng anh
[2] ISO 14004:2005
[3] TCVN ISO 14001:2010 Tài liệu tiếng việt.
[4] Các tài liệu triển khai trong khuôn khổ Chương trình quốc gia về “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”được tham khảo làm căn cứ cho việc biên soạn sách, như các nhiệm vụ mang mã số: 03.8/2013 - DA2; 03.5/2014-DA2; …
- Thu ngân sách nhà nước tăng hơn 38% vào đầu năm 2025
- Thu ngân sách nhà nước tăng hơn 38% vào đầu năm 2025
- BIDV đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% trong năm nay
- OpenAI gợi ý về quảng cáo trong khi Google đưa quảng cáo vào Chế độ AI
- Việt Nam tìm kiếm sự hỗ trợ toàn cầu cho tăng trưởng dựa trên công nghệ