0236.3650403 (128)

PHÂN TÍCH SO SÁNH VỀ SỰ CẠNH TRANH GIỮA NGÀNH THỜI TRANG HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN BẰNG CÁCH ÁP DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG ĐÔI TỔNG QUÁT (TT)


<p> 2.1/ Ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc v&agrave; Nhật bản</p> <p> 2.2.1/ Lịch sử h&igrave;nh th&agrave;nh ng&agrave;nh thời trang</p> <p> Theo nhiều xu hướng quan điểm của nh&agrave; kinh tế như m&ocirc; h&igrave;nh Flying Geese (Akamatsu 1962) v&agrave; quan điểm t&acirc;n cổ điển (ng&acirc;n h&agrave;ng thế giới 1993), lịch sử đ&atilde; tranh cải rằng ng&agrave;nh dệt may hiện đại bao gồm sản xuất quần &aacute;o, ph&ugrave; hợp với những nền kinh tế trước đ&acirc;y v&agrave; đ&oacute;ng v&agrave;i tr&ograve; ch&iacute;nh trong qu&aacute; tr&igrave;nh c&ocirc;ng nghiệp h&oacute;a lần đầu ti&ecirc;n, bởi v&igrave; n&oacute; l&agrave; ng&agrave;nh th&acirc;m dụng lao động nhưng y&ecirc;u cầu tr&igrave;nh độ c&ocirc;ng nghệ thấp (Lelegama 2009;580). Trong thế kỷ 19, ng&agrave;nh dệt may hiện đại bắt đầu với việc sản xuất ra m&aacute;y xe sợi v&agrave; m&aacute;y m&aacute;y trong thời kỳ c&aacute;ch mạng c&ocirc;ng nghiệp ở Anh. V&agrave;o đầu thế kỷ 19, sản xuất dệt may mở rộng sang phần c&ograve;n lại của Ch&acirc;u &acirc;u v&agrave; Bắc mỹ c&ugrave;ng với sự cơ giới h&oacute;a của ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp, v&agrave; trong thế kỷ 20 mở rộng sang c&aacute;c nước T&acirc;y &aacute; như Nhật bản v&agrave; 3 quốc gia lớn (H&agrave;n quốc, Hồng k&ocirc;ng v&agrave; Đ&agrave;i loan) (Leseure, Hureeram, &amp; Bennett 2009;618).</p> <p> Hơn nữa, sự phức tạp ng&agrave;nh dệt may ở những nước ph&aacute;t triển ch&iacute;nh (Mỹ, Canada, c&aacute;c quốc gia Đ&ocirc;ng &acirc;u, Nhật bản v&agrave; &Uacute;c) cơ bản đ&atilde; dẫn đến qu&aacute; tr&igrave;nh c&ocirc;ng nghiệp h&oacute;a trong mỗi quốc gia. Trong mỗi quốc gia, lĩnh vực trở n&ecirc;n lợi thế ho&agrave;n to&agrave;n v&agrave; cạnh tranh như một nh&agrave; sản xuất dệt may v&agrave; thị trường quần &aacute;o v&agrave; thậm ch&iacute; mở ra to&agrave;n bộ giai đoạn trưởng th&agrave;nh. Nhật bản r&otilde; r&agrave;ng l&agrave; người dẫn đầu sớm trong việc ph&aacute;t triển ng&agrave;nh c&ocirc;ng nghiệp của n&oacute; v&agrave; xuất khẩu sản phẩm sang c&aacute;c quốc gia kh&aacute;c tr&ecirc;n thế giới. Nhiều nước T&acirc;y &Aacute; đi theo bước ch&acirc;n của Nhật bản để trở th&agrave;nh một v&agrave;i trong số những nh&agrave; cung cấp ch&iacute;nh trong thị trường dệt may quốc tế ng&agrave;y nay. Nhiều trong số những quốc gia n&agrave;y (như Hồng k&ocirc;ng, Nam triều ti&ecirc;n v&agrave; Đ&agrave;i Loan) c&oacute; nền sản xuất v&agrave; cấu tr&uacute;c thị trường ph&aacute;t triển tốt v&agrave; sử dụng sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường to&agrave;n cầu trong lĩnh vực n&agrave;y. Tuy nhi&ecirc;n, hiện nay ng&agrave;nh dệt may Nhật bản đ&atilde; thay đổi sự tập trung của m&igrave;nh v&agrave;o ng&agrave;nh sợi tổng hợp th&acirc;m dụng vốn; những nh&agrave; sản xuất vải của n&oacute; vẫn cạnh tranh tr&ecirc;n thị trường thế giới, mặc d&ugrave; H&agrave;n quốc cũng đ&atilde; cố gắng di chuyển sang ng&agrave;nh th&acirc;m dụng vốn, c&ocirc;ng nghệ cao v&agrave; c&oacute; gi&aacute; trị gia tăng, như kết quả của c&aacute;c nước đang ph&aacute;t triển như Trung quốc, Ấn độ v&agrave; Việt Ban tăng cường nhanh ch&oacute;ng sự cạnh tranh của ng&agrave;nh thời trang của họ (Park and Anderson 1991; 545-546 Dickerson 1999;51-53)</p> <p> V&agrave;o thế kỷ 20, sự ph&aacute;t triển v&agrave; mở rộng của IT v&agrave; to&agrave;n cầu h&oacute;a đ&atilde; dẫn đến to&agrave;n cầu h&oacute;a chuổi h&agrave;ng h&oacute;a d&agrave;i, bao gồm một số tổ chức kinh tế - c&ugrave;ng chiều v&agrave; ngược chiều, m&agrave; lan rộng khắp thế giưới trong ng&agrave;nh dệt may. Trong chuổi h&agrave;ng h&oacute;a to&agrave;n cầu, mối quan hệ hợp t&aacute;c giữa c&aacute;c quốc gia ti&ecirc;n tiến với c&aacute;c quốc gia đang ph&aacute;t triển được dựa tr&ecirc;n trật tự theo chiều dọc; những &ocirc;ng chủ thương hiệu v&agrave; những nh&agrave; b&aacute;n lẻ lớn từ c&aacute;c nước ph&aacute;t triển c&oacute; quyền lực trong c&aacute;c quan hệ (Hassler 2003;515-517)</p> <p> 2.1.2 sự giống nhau v&agrave; kh&aacute;c nhau giữa 2 nước</p> <p> Nhiều nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu (Lee (a) 2003; 359-361 Lee (b) 2003; 433-435) đ&atilde; chỉ ra rằng ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n Quốc cố v&agrave;i n&eacute;t tương đồng với ng&agrave;nh thời trang Nhật bản. điều n&agrave;y l&agrave; v&igrave; n&eacute;t tương đồng&nbsp; của n&oacute; với ng&agrave;nh thời trang Nhật bản về điều kiện ch&iacute;nh trị, nền tảng x&atilde; hội v&agrave; văn h&oacute;a. Th&ecirc;m v&agrave;o đ&oacute;, hai quốc gia c&oacute; nhiều điểm chung về điều kiện nhận thức thời trang của người ti&ecirc;u d&ugrave;ng v&agrave; h&agrave;nh vi mua h&agrave;ng của họ, cũng như thực tế kinh doanh của c&aacute;c c&ocirc;ng ty thời trang, v&igrave; n&eacute;t tương đồng của 2 quốc gia trong qu&aacute; tr&igrave;nh chấp nhận &aacute;o đầm thời trang đ&ocirc;ng &acirc;u v&agrave; gần nhau về địa l&yacute;.</p> <p> Đặc biệt, mặc d&ugrave; c&oacute; sự kh&aacute;c nhau về thời gian, H&agrave;n quốc v&agrave; Nhật bản đ&atilde; thể hiện một qu&aacute; tr&igrave;nh ph&aacute;t triển ng&agrave;nh thời trang tương tự nhau: cả 2 nước đầu ti&ecirc;n đ&atilde; chấp nhận &aacute;o đầm v&agrave; đồ &acirc;u phục; sau đ&oacute; thực hiện việc may &acirc;u phục; v&agrave; hầu như cả 2 quốc gia gần đ&acirc;y đ&atilde; ph&aacute;t triển một thị trường may mặc thực tế, ng&agrave;nh thời trang với số lượng lớn, thị trường thời trang cảm hứng cao v&agrave; thị trường to&agrave;n cầu. H&agrave;n quốc v&agrave; Nhật bản thể hiện điểm tương đồng về điều kiện cấu tr&uacute;c thời trang của họ; c&oacute; nghĩa l&agrave;, ng&agrave;nh dệt may sẽ t&iacute;nh cho thị phần lớn trong to&agrave;n bộ ng&agrave;nh thời trang ở cả hai nước (Lee (a) 2003;359-360).</p> <p> Dĩ nhi&ecirc;n, c&oacute; một v&agrave;i sự kh&aacute;c biệt giữa hai quốc gia. Đầu ti&ecirc;n, H&agrave;n quốc v&agrave; Nhật bản chọn chiến lược kh&aacute;c nhau, bởi v&igrave; ng&agrave;nh thời trang Nhật bản được dựa tr&ecirc;n sự ti&ecirc;u d&ugrave;ng nội địa (giống như Mỹ) trong khi ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc th&igrave; hướng về xuất khẩu. thứ hai, H&agrave;n quốc mạnh về lĩnh vực c&ocirc;ng nghệ nhuộm v&agrave; qui tr&igrave;nh sản xuất cũng như kh&iacute;a cạnh nhạy cảm của người ti&ecirc;u d&ugrave;ng, đ&acirc;y l&agrave; yếu tố quan trọng đối với h&igrave;nh ảnh quốc gia v&agrave; thị trường thời trang trong khi Nhật bản đ&atilde; vượt xa H&agrave;n quốc trong khả năng c&ocirc;ng nghệ v&agrave; thiết kế (Lee (b) 2003;433-434). Ng&agrave;nh thời trang Nhật bản đ&atilde; thực hiện ảnh hưởng lớn l&ecirc;n thị trường to&agrave;n cầu. Nhật bản vẫn giữ vị tr&iacute; như một nh&agrave; cung cấp h&agrave;ng dệt may c&ocirc;ng nghệ cao, mặc d&ugrave; n&oacute; cũng phụ thuộc lớn v&agrave;o việc nhập khẩu h&agrave;ng may mặc. khoảng 80% h&agrave;ng may mặc ti&ecirc;u d&ugrave;ng ở Nhận bản được nhập khẩu từ Trung quốc v&agrave; phần c&ograve;n nhập khẩu từ c&aacute;c nước Đ&ocirc;ng nam &aacute; v&agrave; Bangladesh ( Samsung design net 2011). Sản xuất dệt may của H&agrave;n quốc, l&agrave; một trong những ng&agrave;nh trụ cột của ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc, đ&atilde; giảm sau giữa những năm 1990 v&igrave; sự cải thiện khả năng sản xuất của c&aacute;c quốc gia đang ph&aacute;t triển&nbsp; v&agrave; giảm về cầu nhập khẩu. cuối c&ugrave;ng, c&oacute; một khoảng c&aacute;ch về thời gian giữa 2 nước. khi ng&agrave;nh thời trang của H&agrave;n quốc được th&agrave;nh lập, n&oacute; đ&atilde; đi sau Nhật bản hơn 15 năm. Tuy nhi&ecirc;n, khi thời gian đi qua, khoảng c&aacute;ch thời gian giữa ng&agrave;nh thời trang của 2 quốc gia đ&atilde; hẹp dần ((Lee (a) 2003;359).</p> <p> Nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y nhằm mục đ&iacute;ch t&igrave;m kiếm phương thức cho thị trường thời trang H&agrave;n quốc th&acirc;m nhập v&agrave; thị trường thời trang to&agrave;n cầu bằng c&aacute;ch so s&aacute;nh lợi thế cạnh tranh giữa ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc v&agrave; Nhật bản, một trong những ng&agrave;nh thời trang h&agrave;ng đầu v&agrave; ti&ecirc;n tiến tr&ecirc;n thế giới, khi hai ng&agrave;nh n&agrave;y chia sẽ sự tương đồng về văn h&oacute;a v&agrave; vị tr&iacute; địa l&yacute;. Bằng c&aacute;ch so s&aacute;nh lợi thế cạnh tranh to&agrave;n cầu giữa hai ng&agrave;nh thời trang, nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y t&igrave;m kiếm để học hỏi loại cạnh tranh to&agrave;n cầu n&agrave;o cần cho ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc trở th&agrave;nh một trong những ng&agrave;nh thời trang h&agrave;ng đầu tr&ecirc;n thế giới cũng như ph&acirc;n t&iacute;ch chi tiết lợi thế cạnh tranh to&agrave;n cầu của ng&agrave;nh thời trang H&agrave;n quốc để t&igrave;m kiếm những yếu tố cần thiết của sự cạnh tranh cần cho H&agrave;n quốc gia nhập v&agrave;o thị trường thời trang to&agrave;n cầu. Để thực hiện nghi&ecirc;n cứu n&agrave;y, m&ocirc; h&igrave;nh kim cương v&agrave; m&ocirc; h&igrave;nh kim cương đ&ocirc;i tổng qu&aacute;t của Porter được sử dụng để so s&aacute;nh v&agrave; ph&acirc;n t&iacute;ch t&iacute;nh cạnh tranh to&agrave;n cầu của 2 ng&agrave;nh thời trang n&agrave;y.</p> <p> THS. NGUYỄN THỊ TUY&Ecirc;N NG&Ocirc;N &ndash; KHOA QTKD</p>