0236.3650403 (128)

SỰ HẤP DẪN TÍNH CÁCH THƯƠNG HIỆU, CHẤT LƯỢNG QUAN HỆ THƯƠNG HIỆU VÀ TRUYỀN MIỆNG


<p> L&agrave;m thế n&agrave;o để x&acirc;y dựng thương hiệu mạnh l&agrave; một vấn đề m&agrave; thu h&uacute;t c&aacute;c học giả v&agrave; những người h&agrave;nh nghề trong nhiều năm (Th&iacute; dụ&nbsp; Erdem and Swait 1998; Keller 1993; Woodside and Walser 2007). [Đ&aacute;nh gi&aacute; t&iacute;nh cần thiết của nghi&ecirc;n cứu]. Theo đ&oacute;, một số tiếp cận được đề nghị bởi c&aacute;c học giả để m&ocirc; tả sức mạnh của một thương hiệu. Một v&agrave;i gốc từ từ t&acirc;m l&yacute; học nhận thức, th&iacute; dụ dựa v&agrave;o qu&aacute; tr&igrave;nh nhận thức của kh&aacute;ch h&agrave;ng, chẳng hạn như nhận thức thương hiệu, chất lượng nhận thức, trung th&agrave;nh thương hiệu, hiệp hội thương hiệu v&agrave; trải nghiệm thương hiệu gần đ&acirc;y (Th&iacute; dụ Brakus, Schmitt, and Zarantonello 2009; Keller 1993). [L&yacute; thuyết nền]. C&aacute;c gốc từ kh&aacute;c đến từ nền kinh tế th&ocirc;ng tin, th&iacute; dụ dựa v&agrave;o dấu hiệu của thương hiệu với kh&aacute;ch h&agrave;ng chẳng hạn như uy t&iacute;n thương hiệu, t&iacute;nh bền vững v&agrave; t&iacute;nh r&otilde; r&agrave;ng của thương hiệu (Th&iacute; dụ Erdem and Swait 1998). Trong khi dựa v&agrave;o những quan điểm l&yacute; thuyết kh&aacute;c biệt, mục ti&ecirc;u phổ biến của họ l&agrave; điều khi tạo ra một thương hiệu trở n&ecirc;n mạnh, v&agrave; thiết lập một mối quan hệ chất lượng cao giữa thương hiệu với kh&aacute;ch h&agrave;ng nằm giữa những chiến lược tốt nhất để x&acirc;y dựng thương hiệu mạnh (Lin and Sung 2014; Woodside and Walser 2007). [Theo d&otilde;i l&yacute; thuyết nền sử dụng trong đ&aacute;nh gi&aacute;].</p> <p> Như marketing được dịch chuyển từ m&ocirc; h&igrave;nh maketing truyền thống (marketing hỗn hợp) đến m&ocirc; h&igrave;nh marketing quan hệ (Bejou 1997), việc thiết lập mối quan hệ thương hiệu-kh&aacute;ch h&agrave;ng chất lượng được xem l&agrave; yếu tố cốt l&otilde;i của sự th&agrave;nh c&ocirc;ng một thương hiệu. Với l&iacute; do đ&oacute; c&aacute;c học giả đ&atilde; cống hiến sự nổ lực của m&igrave;nh trong nghi&ecirc;n cứu mối quan hệ giữa thương hiệu v&agrave; kh&aacute;ch h&agrave;ng (Th&iacute; dụ Fournier 1998; Huang and Mitchell 2014; Pentina et al. 2013), v&agrave; nh&agrave; maketing sẽ cố gắng x&acirc;y dựng mội quan hệ tốt đẹp giữa thương hiệu v&agrave; kh&aacute;ch h&agrave;ng, được phản &aacute;nh trong chất lượng của những mối quan hệ, đ&oacute; l&agrave; chất lượng quan hệ thương hiệu. Fournier (1998) đ&atilde; đưa ra một m&ocirc; h&igrave;nh nhận thức của chất lượng quan hệ thương hiệu m&agrave; bao phủ to&agrave;n bộ c&aacute;c kh&iacute;a cạnh m&agrave; đ&oacute;ng g&oacute;p cho một mối quan hệ chất lượng cao giữa thương hiệu v&agrave; kh&aacute;ch h&agrave;ng. C&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu trong lĩnh vực n&agrave;y cũng đ&atilde; đề nghị một số kết quả mối quan hệ thương hiệu-kh&aacute;ch h&agrave;ng (MacInnis, Park, and Priester 2009). [Theo d&otilde;i l&yacute; thuyết nền sử dụng trong đ&aacute;nh gi&aacute;]</p> <p> Giữa những tiền lệ của chất lượng quan hệ thương hiệu, đặc t&iacute;nh thương hiệu c&oacute; thể l&agrave; một đặc t&iacute;nh tiềm năng. Sau b&agrave;i b&aacute;o về đặc điểm con người gắn liền với một thương hiệu, một người chủ nghi&ecirc;n cứu về đặc t&iacute;nh thương hiệu dựa tr&ecirc;n t&acirc;m l&yacute; học t&iacute;nh c&aacute;ch được c&ocirc;ng bố trong tạp ch&iacute; marketing (th&iacute; dụ Branaghan and Hildebrand 2011; Eisend and Stokburger-Sauer 2013; Maehle, Otnes, and Supphellen 2011). Tuy nhi&ecirc;n, vai tr&ograve; của đặc t&iacute;nh thương hiệu trong quan hệ thương hiệu vẫn c&ograve;n chưa được nghi&ecirc;n cứu (Th&iacute; dụ Eisend and StokburgeSauer 2013) [Lỗ hổng-Đ&oacute;ng g&oacute;p mới]. Hơn nữa, mặc d&ugrave; văn h&oacute;a về đặc t&iacute;nh thương hiệu đ&atilde; nhanh ch&oacute;ng mở ra trong v&agrave;i năm qua, nhưng sự ứng dụng thực tiễn vẫn l&agrave; c&acirc;u hỏi bởi v&igrave; kh&aacute;ch h&agrave;ng c&oacute; thể kh&ocirc;ng đại diện tổng thể, li&ecirc;n quan đến thương hiệu con người (Avis 2012). C&oacute; một nhu cầu cho việc chuyển kh&aacute;i niệm đặc t&iacute;nh thương hiệu th&agrave;nh m&ocirc;t kh&aacute;i niệm c&oacute; thể dễ d&agrave;ng hiểu được hơn l&agrave; kh&aacute;ch h&agrave;ng v&agrave; kh&aacute;i niệm hấp dẫn đặc t&iacute;nh thương hiệu l&agrave; một kh&aacute;i niệm ph&ugrave; hợp (Freling, Crosno, and Henard 2011). Hơn nữa, nghi&ecirc;n cứu về đặc t&iacute;nh thương hiệu được đảm nhiệm trong thể giới ph&aacute;t triển (Th&iacute; dụ Aaker 1997; Arsena, Silvera, and Pandelaere 2014; Freling, Crosno, and Henard 2011). &Iacute;t được biết đến tại Việt Nam. [X&aacute;c định khe hổng, nhu cầu nghi&ecirc;n cứu]</p> <p> Với d&acirc;n số hơn 80 triệu người, nh&igrave;n chung Việt Nam cung cấp một t&igrave;nh huống ph&ugrave; hợp cho nghi&ecirc;n cứu thương hiệu kh&aacute;ch h&agrave;ng v&agrave; hấp dẫn đặc t&iacute;nh thương hiệu một c&aacute;ch đặc biệt. Sự vận động hướng tới kinh tế thị trường, gia nhập v&agrave;o tổ chức thương mại thế giới WTO đ&atilde; khiến cho c&aacute;c doanh nghiệp Việt Nam được c&ocirc;ng nhận vai tr&ograve; quan trọng của thương hiệu trong hoạt động kinh doanh của m&igrave;nh. Th&oacute;i quen mua sắm của kh&aacute;ch h&agrave;ng Việt Nam cũng được thay đổi từ việc mua c&aacute;c sản phẩm kh&ocirc;ng c&oacute; thương hiệu th&agrave;nh c&aacute;c sản phẩm c&oacute; thương hiệu (Nguyen, Nguyen, and Barrett 2008). Một cuộc khảo s&aacute;t kh&aacute;ch h&agrave;ng Việt Nam gần đ&acirc;y được thực hiện bởi GfK, một h&atilde;ng nghi&ecirc;n cứu thị trường nước ngo&agrave;i tại Việt Nam đ&atilde; thể hiện rằng kh&aacute;ch h&agrave;ng Việt Nam gi&agrave;nh kh&aacute; nhiều thời gian để nghi&ecirc;n cứu th&ocirc;ng tin về thương hiệu, cao hơn 12% so với b&igrave;nh qu&acirc;n của thể giới (Viet Toan 2013). [Theo d&otilde;i thị trường đưa ra nhu cầu nghi&ecirc;n cứu]</p> <p> Trong suốt v&agrave;i năm qua, một v&agrave;i chiến dịch x&uacute;c tiến bảo trợ ch&iacute;nh phủ đ&atilde; được thiết kế để khuyến kh&iacute;ch kh&aacute;ch h&agrave;ng Việt Nam mua sản phẩm được tạo ra từ địa phương, chẳng hạn như &ldquo;Thương hiệu chất lượng cao của Việt Nam&rdquo; v&agrave; &ldquo;Tuần thương hiệu Việt Nam&rdquo;. Tuy nhi&ecirc;n, kh&aacute;ch h&agrave;ng Việt Nam vẫn c&ograve;n y&ecirc;u th&iacute;ch thương hiệu nước ngo&agrave;i bởi v&igrave; kh&ocirc;ng chỉ l&agrave; ch&uacute;ng được nhập khẩu m&agrave; c&ograve;n v&igrave; ch&uacute;ng được thiết lập trong t&acirc;m tr&iacute; của kh&aacute;ch h&agrave;ng. Trong khi kh&aacute;ch h&agrave;ng Việt Nam hiện tại sẵn s&agrave;ng để tra cho thương hieenuj m&agrave; họ y&ecirc;u th&iacute;ch, thương hiệu Việt nam chưa x&acirc;y dựng một vị tr&iacute; trong t&acirc;m tr&iacute; của kh&aacute;ch h&agrave;ng, kh&ocirc;ng giống sự cạnh tranh sản phẩm nhập khẩu (Duy Duy 2015). Điều n&agrave;y l&agrave; bởi v&igrave; c&aacute;c doanh nghiệp Việt Nam kh&ocirc;ng c&ocirc;ng nhận đầy đủ vai tr&ograve; quan trọng của thương hiệu (Thuong hieu Viet 2015). Theo đ&oacute; n&oacute; được tranh c&atilde;i rằng việc x&acirc;y dựng đặc t&iacute;nh thương hiệu cao với kh&aacute;ch h&agrave;ng đ&oacute;ng vai tr&ograve; quan trong c&oacute; sự th&agrave;nh c&ocirc;ng của thương hiệu bởi v&igrave; đặc t&iacute;nh thương hiệu c&oacute; thể phục vụ như một c&ocirc;ng cụ cho sự x&aacute;c định t&iacute;nh c&aacute;ch (Fennis and Pruyn 2007; Szmigin 2003). [Theo d&otilde;i thị trường đưa ra nhu cầu nghi&ecirc;n cứu]</p> <p> Với l&yacute; do đ&oacute;, nghi&ecirc;n cứu hiện tại đ&oacute;ng g&oacute;p cho văn h&oacute;a về thương hiệu bằng việc nghi&ecirc;n cứu sự t&aacute;c động của hấp dẫn đặc t&iacute;nh thương hiệu v&agrave; truyền miệng tại Việt Nam. Nghi&ecirc;n cứu cũng kiểm định vai tr&ograve; của th&aacute;i độ hướng tới quảng c&aacute;o v&agrave; quan hệ c&ocirc;ng chugns trong hấp dẫn đặc t&iacute;nh thương hiệu cũng như chất lượng quan hệ thương hiệu. [X&aacute;c định mục ti&ecirc;u tổng qu&aacute;t.</p> <p> Nguyễn Huy Tu&acirc;n - Khoa QTKD</p>