0236.3650403 (128)

THUYẾT BẤT HÒA NHẬN THỨC


<p> <strong>ThS. TRẦN THỊ NHƯ L&Acirc;M</strong></p> <p> &nbsp;</p> <p> Th&aacute;i độ thường dẫn đến h&agrave;nh vi, nhưng đ&ocirc;i khi h&agrave;nh vi lại ảnh hưởng đến th&aacute;i độ do qu&aacute; tr&igrave;nh bất h&ograve;a nhận thức.</p> <p> Thuyết bất h&ograve;a nhận thức do Leon Festinger đưa ra v&agrave;o khoảng cuối những năm 1950. Bất h&ograve;a nhận thức l&agrave; bất kỳ sự kh&ocirc;ng tương hợp m&agrave; c&aacute; nh&acirc;n c&oacute; thể nhận thấy giữa c&aacute;c th&aacute;i độ của anh ta hoặc giữa th&aacute;i độ v&agrave; h&agrave;nh vi.</p> <p> Sự kh&ocirc;ng tương hợp tạo ra sự kh&oacute; chịu, kh&ocirc;ng thoải m&aacute;i v&agrave; khi đ&oacute; c&aacute; nh&acirc;n sẽ cố gắng l&agrave;m giảm sự bất h&ograve;a, c&aacute; nh&acirc;n sẽ theo đuổi t&igrave;nh trạng c&acirc;n bằng tại đ&oacute; sự bất h&ograve;a l&agrave; nhỏ nhất.</p> <p> Mong muốn l&agrave;m giảm sự bất h&ograve;a được x&aacute;c định bằng:</p> <p style="margin-left: 80px;"> &middot;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; <em>Tầm quan trọng của c&aacute;c nh&acirc;n tố tạo ra sự bất h&ograve;a:</em>khi ch&uacute;ng ta cho rằng yếu tố tạo bất h&ograve;a l&agrave; kh&ocirc;ng quan trọng th&igrave; ch&uacute;ng ta sẽ kh&ocirc;ng phải chịu &aacute;p lực n&agrave;y. Nếu ca sĩ cho rằng kh&ocirc;ng đ&oacute;ng thuế thu nhập cũng chẳng c&oacute; g&igrave; quan trọng th&igrave; tự khắc họ kh&ocirc;ng cảm thấy &aacute;p lực với h&agrave;nh vi trốn thuế của m&igrave;nh.</p> <p style="margin-left: 80px;"> &middot;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; <em>Niềm tin của c&aacute; nh&acirc;n về mức độ ảnh hưởng của họ đối với c&aacute;c nh&acirc;n tố tạo ra sự bất h&ograve;a:</em>nếu nhận thấy sự bất h&ograve;a l&agrave; kết quả kh&ocirc;ng thể kiểm so&aacute;t được, th&igrave; hiếm khi ch&uacute;ng ta chấp nhận thay đổi th&aacute;i độ. Như trong trường hợp của ca sĩ, nếu trốn thuế kh&ocirc;ng do họ kiểm so&aacute;t m&agrave; do bầu s&ocirc; hay nh&agrave; quản l&yacute; l&agrave;m th&igrave; họ sẽ kh&ocirc;ng cảm thấy c&oacute; tội.</p> <p style="margin-left: 80px;"> &middot;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; <em>C&aacute;c phần thưởng c&oacute; thể nhận được trong sự bất h&ograve;a: </em>nếu đi k&egrave;m với bất h&ograve;a l&agrave; một phần thưởng rất c&oacute; gi&aacute; trị th&igrave; ch&uacute;ng ta c&oacute; khuynh hướng giảm &aacute;p lực cố hữu về bất h&ograve;a. Khi ca sĩ trốn thuế, họ nhận thấy sẽ tiết kiệm được số tiền qu&aacute; lớn. Số tiền n&agrave;y c&oacute; thể l&agrave;m cho họ kh&ocirc;ng c&ograve;n cảm thấy &aacute;y n&aacute;y về h&agrave;nh vi trốn thuế của m&igrave;nh.</p> <p> Vậy nh&agrave; quản l&yacute; &aacute;p dụng l&yacute; thuyết bất h&ograve;a n&agrave;y trong tổ chức như thế n&agrave;o? L&yacute; thuyết n&agrave;y gi&uacute;p họ dự b&aacute;o xu hướng cam kết thay đổi h&agrave;nh vi v&agrave; th&aacute;i độ. Khi &aacute;p lực của bất h&ograve;a c&agrave;ng lớn, nếu tổ chức biết qu&acirc;n b&igrave;nh với tầm quan trọng của nh&acirc;n tố tạo ra sự bất h&ograve;a, mức độ ảnh hưởng của c&aacute; nh&acirc;n đối với c&aacute;c nh&acirc;n tố v&agrave; phần thưởng c&oacute; được từ sự bất h&ograve;a, th&igrave; &aacute;p lực bất h&ograve;a sẽ ng&agrave;y c&agrave;ng giảm. V&iacute; dụ, nhiều nh&acirc;n vi&ecirc;n l&agrave;m việc trong c&aacute;c nh&agrave; m&aacute;y sản xuất thuốc l&aacute; cảm thấy c&oacute; sự bất h&ograve;a rất lớn giữa c&ocirc;ng việc v&agrave; những t&aacute;c hại do thuốc l&aacute; g&acirc;y ra cho x&atilde; hội. Như vậy, nh&agrave; quản l&yacute; cần phải t&igrave;m c&aacute;ch để giảm sự bất h&ograve;a n&agrave;y bằng c&aacute;c hoạt động hỗ trợ cho x&atilde; hội từ nguồn lợi do kinh doanh thuốc l&aacute; đem lại, hoặc tạo điều kiện l&agrave;m việc v&agrave; ch&iacute;nh s&aacute;ch tiền lương để động vi&ecirc;n được nh&acirc;n vi&ecirc;n.&nbsp;</p>