0236.3650403 (128)

VĂN HÓA TỔ CHỨC: MỘT TIẾP CẬN SO SÁCH SỰ PHÙ HỢP GIỮA CÁ NHÂN VÀ TỔ CHỨC


<p> Kh&aacute;i niệm chung về ph&ugrave; hợp, hoặc sự đồng điệu, từ l&acirc;u đ&atilde; rất quan trọng trong t&acirc;m l&yacute; học v&agrave; h&agrave;nh vi tổ chức (Nadler &amp; Tushman, 1980). Trong nghi&ecirc;n cứu sự ph&ugrave; hợp của con người, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu h&agrave;nh vi tổ chức thường lấy một trong hai con đường rộng. Một đ&atilde; dẫn đến việc t&igrave;m hiểu về sự tương t&aacute;c của c&aacute;c đặc điểm c&aacute; nh&acirc;n v&agrave; c&aacute;c thuộc t&iacute;nh nghề nghiệp rộng lớn, một để kh&aacute;m ph&aacute; sự ph&ugrave; hợp giữa c&aacute;c đặc điểm cụ thể của một tổ chức v&agrave; những người trong đ&oacute;. V&iacute; dụ về phạm vi tiếp cận thứ hai bao gồm nghi&ecirc;n cứu sự kết hợp c&aacute;c kỹ năng c&aacute; nh&acirc;n với y&ecirc;u cầu c&ocirc;ng việc để nghi&ecirc;n cứu mối quan hệ giữa c&aacute;c đặc điểm c&aacute; nh&acirc;n v&agrave; kh&iacute; hậu của tổ chức (v&iacute; dụ: Downey, Hellriegel, &amp; Slocum, 1975). V&iacute; dụ, hai l&yacute; thuyết ch&iacute;nh về lựa chọn nghề nghiệp (Holland, 1985, Super, 1957) đều cho rằng một c&aacute; nh&acirc;n sẽ lựa chọn nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp tương tự hoặc ph&ugrave; hợp với kh&aacute;i niệm tự của người đ&oacute;. C&aacute;c kết quả thực nghiệm đ&atilde; ủng hộ cho giả thiết rằng sự đồng nhất giữa nh&acirc;n c&aacute;ch c&aacute; nh&acirc;n v&agrave; nhu cầu của nghề nghiệp c&oacute; li&ecirc;n quan đến ảnh hưởng t&iacute;ch cực (Mount &amp; Muchinsky, 1978, Spokane, 1985) v&agrave; c&oacute; nhiều khả năng họ ở trong c&ocirc;ng việc của họ (Meir &amp; Hasson, 1982). Một logic tương tự đặc trưng cho một loạt c&aacute;c nghi&ecirc;n cứu về điều chỉnh c&ocirc;ng việc được thực hiện bởi Lofquist v&agrave; Dawis (1969).</p> <p> Một lời b&igrave;nh luận tương tự c&oacute; thể được thực hiện bằng c&aacute;ch xử l&yacute; nh&acirc;n c&aacute;ch hiện tại, trong đ&oacute; hầu hết c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu đ&atilde; dựa v&agrave;o một số biện ph&aacute;p quy chuẩn m&agrave; c&oacute; thể kh&ocirc;ng chỉ thất bại để m&ocirc; tả c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n một c&aacute;ch thỏa đ&aacute;ng nhưng cũng c&oacute; thể đ&aacute;nh gi&aacute; đặc điểm nh&acirc;n c&aacute;ch kh&ocirc;ng li&ecirc;n quan đến người hoặc c&aacute;c t&igrave;nh huống đang nghi&ecirc;n cứu (O&#39;Reilly, Caldwell, &amp; Mirabile, 1990; Weiss &amp; Adler, 1984). Do đ&oacute;, mặc d&ugrave; c&aacute;c nghi&ecirc;n cứu gợi &yacute;, nghi&ecirc;n cứu trước đ&acirc;y thường thất bại trong việc m&ocirc; tả con người v&agrave; c&aacute;c t&igrave;nh huống một c&aacute;ch to&agrave;n diện theo c&aacute;c k&iacute;ch thước tương xứng v&agrave; c&oacute; li&ecirc;n quan. Sự thất bại n&agrave;y đ&atilde; cản trở sự ph&aacute;t triển v&agrave; đ&aacute;nh gi&aacute; thực nghiệm c&aacute;c l&yacute; thuyết mạch lạc về tương t&aacute;c người-t&igrave;nh huống.</p> <p> C&aacute;c nghi&ecirc;n cứu gần đ&acirc;y về t&acirc;m l&yacute; học tương t&aacute;c đ&atilde; bắt đầu x&aacute;c định c&aacute;c đặc t&iacute;nh của c&aacute;c kỹ thuật hiệu quả để giải quyết c&aacute;c ảnh hưởng của con người. Bem v&agrave; Funder (1978) lập luận rằng, ngo&agrave;i việc cung cấp c&aacute;c ph&eacute;p đo tổng hợp, c&aacute;c kỹ thuật hiệu quả để đ&aacute;nh gi&aacute; người v&agrave; c&aacute;c t&igrave;nh huống n&ecirc;n cho ph&eacute;p so s&aacute;nh tổng thể theo nhiều chiều. C&aacute;ch tiếp cận n&agrave;y c&oacute; thể được coi l&agrave; &quot;b&aacute;n idiographic&quot; ở chỗ n&oacute; idiographic (v&iacute; dụ, so s&aacute;nh sức mạnh tương đối của c&aacute;c thuộc t&iacute;nh trong một c&aacute; nh&acirc;n) đối với c&aacute;c thuộc t&iacute;nh ri&ecirc;ng lẻ nhưng cho ph&eacute;p so s&aacute;nh c&aacute;c quan điểm (Luthans &amp; Davis, 1982; Springfield , 1988). V&igrave; bất kỳ chiều k&iacute;ch đặc điểm nhất định sẽ kh&ocirc;ng &aacute;p dụng cho tất cả c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n, ch&uacute;ng t&ocirc;i muốn chỉ c&oacute; thể lựa chọn những biến thể c&aacute; nh&acirc;n ph&ugrave; hợp với c&aacute; nh&acirc;n trọng t&acirc;m. L&agrave;m như vậy đ&ograve;i hỏi một c&aacute;ch tiếp cận trong đ&oacute; tất cả c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n được đ&aacute;nh gi&aacute; theo một thuộc t&iacute;nh nhất định (Lamiell, 1981). Tuy nhi&ecirc;n, kh&oacute; khăn với một c&aacute;ch tiếp cận idiographic l&agrave; n&oacute; kh&ocirc;ng phải l&agrave; r&otilde; r&agrave;ng phải l&agrave;m g&igrave; khi đ&aacute;nh gi&aacute; đ&atilde; được thực hiện. Điều cần thiết sau đ&oacute; l&agrave; để c&oacute; thể so s&aacute;nh c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n ngay cả khi descriptor c&oacute; thể c&oacute; li&ecirc;n quan kh&aacute;c nhau với họ.</p> <p> Sử dụng &quot;phương ph&aacute;p luận Q&quot; (Stephenson, 1953), Bern v&agrave; Allen (1974) đ&atilde; ph&aacute;t triển một kỹ thuật ph&ugrave; hợp với mẫu để đ&aacute;p ứng mối quan t&acirc;m k&eacute;p n&agrave;y với sự li&ecirc;n quan v&agrave; t&iacute;nh so s&aacute;nh. C&aacute;ch tiếp cận n&agrave;y tập trung v&agrave;o sự dửng dưng v&agrave; cấu h&igrave;nh của c&aacute;c biến trong một người chứ kh&ocirc;ng phải l&agrave; về vị thế tương đối của người tr&ecirc;n mỗi biến. V&igrave; kh&ocirc;ng phải tất cả c&aacute;c đặc điểm đều &aacute;p dụng cho tất cả mọi người v&agrave; v&igrave; những điểm kh&aacute;c nhau giữa người với nhau l&agrave; những đặc điểm nổi bật đối với mỗi c&aacute; nh&acirc;n, việc đ&aacute;nh gi&aacute; sự ph&ugrave; hợp với người phải cho ph&eacute;p đo lường idiography của mỗi người, đồng thời cho ph&eacute;p so s&aacute;nh c&aacute;c t&igrave;nh huống. C&aacute;ch tiếp cận n&agrave;y đ&ograve;i hỏi một số lượng lớn c&aacute;c mục hoặc m&ocirc; tả m&ocirc; tả to&agrave;n diện c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n v&agrave; c&oacute; li&ecirc;n quan đến c&aacute;c t&igrave;nh huống cụ thể. Chẳng hạn, Bern v&agrave; Funder (1978) đ&atilde; tạo ra một hồ sơ 100 mẫu của người l&yacute; tưởng để thực hiện th&agrave;nh c&ocirc;ng trong một loạt c&aacute;c t&igrave;nh huống cụ thể. C&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n c&oacute; thể l&agrave;m g&igrave; trong một t&igrave;nh huống được dự đo&aacute;n bằng c&aacute;ch n&agrave;o ch&uacute;ng ph&ugrave; hợp với hồ sơ c&aacute; nh&acirc;n trong t&igrave;nh huống l&yacute; tưởng.</p> <p> Mặc d&ugrave; một số nghi&ecirc;n cứu trước đ&acirc;y đ&atilde; kh&aacute;m ph&aacute; kh&aacute;i niệm tổng qu&aacute;t về sự ph&ugrave; hợp của con người (Graham, 1976, Joyce &amp; Slocum, 1984, Tom, 1971), mối quan t&acirc;m gần đ&acirc;y hơn tập trung v&agrave;o &yacute; tưởng rằng c&aacute;c tổ chức c&oacute; nền văn ho&aacute; nhiều hơn hoặc &iacute;t hấp dẫn hơn đối với một số loại c&aacute; thể (v&iacute; dụ, Wilkins &amp; Ouchi, 1983). Như Barley v&agrave; c&aacute;c đồng nghiệp (1988) lưu &yacute;, kh&aacute;i niệm về văn ho&aacute; tổ chức c&oacute; một lịch sử l&acirc;u d&agrave;i, c&oacute; li&ecirc;n quan đến c&aacute;c nghi&ecirc;n cứu x&atilde; hội học ban đầu (v&iacute; dụ, Gouldner, 1954, Selznick, 1949). Tuy nhi&ecirc;n, gần đ&acirc;y nhất, thuật ngữ &quot;văn ho&aacute; tổ chức&quot; trở n&ecirc;n nổi bật.</p> <p> Tr&ecirc;n cơ sở c&aacute;c l&yacute; thuyết từ nh&acirc;n học, x&atilde; hội học v&agrave; t&acirc;m l&yacute; học x&atilde; hội, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu đ&atilde; thực hiện một số nỗ lực để hiểu được h&agrave;nh vi của c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n v&agrave; nh&oacute;m trong c&aacute;c tổ chức sử dụng c&aacute;c kh&aacute;i niệm văn ho&aacute; như ngữ nghĩa học, nghi lễ, nghi thức, c&acirc;u chuyện v&agrave; ng&ocirc;n ngữ (Ouchi &amp; Wilkins , 1985, Smircich, 1983, Swidler, 1986, Trice &amp; Beyer, 1984). Qu&aacute; tr&igrave;nh n&agrave;y đ&atilde; tạo ra một loạt c&aacute;c cuộc tranh luận về c&aacute;c vấn đề như định nghĩa &quot;văn ho&aacute;&quot;, phương ph&aacute;p luận th&iacute;ch hợp để điều tra v&agrave; mức ph&acirc;n t&iacute;ch th&iacute;ch hợp cho nghi&ecirc;n cứu của n&oacute;. Barley (1983) chỉ ra rằng tất cả c&aacute;c nghi&ecirc;n cứu về văn ho&aacute;, bất kể nguồn gốc l&yacute; thuyết của ch&uacute;ng, đều sử dụng thuật ngữ v&agrave; cấu tr&uacute;c tương tự hợp l&yacute;. C&oacute; sự kh&aacute;c biệt giữa c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu về c&aacute;ch thức sử dụng c&aacute;c thuật ngữ v&agrave; cấu tr&uacute;c n&agrave;y như thế n&agrave;o v&agrave; mục đ&iacute;ch sử dụng của những thuật ngữ v&agrave; cấu tr&uacute;c n&agrave;y như thế n&agrave;o v&agrave; như thế n&agrave;o l&agrave; những yếu tố th&iacute;ch hợp để nghi&ecirc;n cứu. Th&ocirc;ng thường, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu đ&atilde; đồng &yacute; rằng văn ho&aacute; c&oacute; thể được coi như l&agrave; một tập hợp c&aacute;c nhận thức được chia sẻ bởi c&aacute;c th&agrave;nh vi&ecirc;n của một đơn vị x&atilde; hội (v&iacute; dụ, Geertz, 1973, Smircich, 1983). Rousseau (1990) cung cấp một m&ocirc; tả tuyệt vời về c&aacute;c yếu tố chung trong c&aacute;c bộ như vậy v&agrave; đưa ra một khung bao gồm c&aacute;c giả định cơ bản, c&aacute;c gi&aacute; trị, c&aacute;c chuẩn mực h&agrave;nh vi v&agrave; kỳ vọng, v&agrave; c&aacute;c m&ocirc; h&igrave;nh h&agrave;nh vi lớn hơn. Nghi&ecirc;n cứu về văn ho&aacute; thường bắt đầu với một bộ c&aacute;c gi&aacute; trị v&agrave; giả định (Enz, 1988, Martin &amp; Siehl, 1983, Schein, 1985, Weiner, 1988). Những gi&aacute; trị n&agrave;y, c&oacute; &yacute; thức hay v&ocirc; thức, thường hoạt động như c&aacute;c yếu tố x&aacute;c định xung quanh c&aacute;c ti&ecirc;u chuẩn, biểu tượng, nghi lễ, v&agrave; c&aacute;c hoạt động văn ho&aacute; kh&aacute;c. Do đ&oacute;, Parsons lập luận rằng một truyền thống văn ho&aacute; xuất hiện xung quanh c&aacute;c gi&aacute; trị, được định nghĩa như l&agrave; c&aacute;c yếu tố &quot;của một hệ thống biểu tượng được chia sẻ, d&ugrave;ng l&agrave;m ti&ecirc;u chuẩn hoặc ti&ecirc;u chuẩn để lựa chọn trong số c&aacute;c phương &aacute;n định hướng tự mở trong t&igrave;nh huống&quot; (1951: 11-12) . Rokeach đưa ra một định nghĩa rất giống nhau, đề xuất rằng &quot;một gi&aacute; trị l&agrave; niềm tin l&acirc;u d&agrave;i cho rằng một phương c&aacute;ch h&agrave;nh xử cụ thể hoặc trạng th&aacute;i cuối c&ugrave;ng của sự tồn tại c&aacute; nh&acirc;n hoặc x&atilde; hội được ưa chuộng hơn l&agrave; một phương thức h&agrave;nh xử đối lập hoặc ngược lại hoặc trạng th&aacute;i cuối c&ugrave;ng của sự tồn tại&quot; (1973 : 5). Trong tĩnh mạch n&agrave;y, c&aacute;c gi&aacute; trị cơ bản c&oacute; thể được coi l&agrave; t&iacute;n ngưỡng chuẩn mực được internalized c&oacute; thể hướng dẫn h&agrave;nh vi. Khi c&aacute;c th&agrave;nh vi&ecirc;n của đơn vị x&atilde; hội chia sẻ gi&aacute; trị, họ c&oacute; thể tạo th&agrave;nh nền tảng cho kỳ vọng x&atilde; hội hoặc c&aacute;c định mức. Nếu những điều n&agrave;y được chia sẻ rộng r&atilde;i hơn trong một nh&oacute;m x&atilde; hội lớn hơn th&igrave; c&oacute; thể tồn tại văn ho&aacute; tổ chức hoặc hệ thống gi&aacute; trị. Do đ&oacute;, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu điều tra văn ho&aacute; bằng c&aacute;ch tập trung v&agrave;o c&aacute;c ti&ecirc;u chuẩn (v&iacute; dụ: Cooke &amp; Rousseau, 1988, Harrison &amp; Carroll, 1991, O&#39;Reilly, 1989) đang nghi&ecirc;n cứu kỳ vọng x&atilde; hội dựa tr&ecirc;n c&aacute;c gi&aacute; trị cơ bản. Những người kh&aacute;c nghi&ecirc;n cứu văn ho&aacute; th&ocirc;ng qua c&aacute;c nghi lễ, c&acirc;u chuyện, hoặc huyền thoại (v&iacute; dụ: Louis, 1983, Martin &amp; Siehl, 1983, Trice &amp; Beyer, 1984) đang xem x&eacute;t c&aacute;c hiện tượng h&igrave;nh th&aacute;i phản &aacute;nh niềm tin v&agrave; gi&aacute; trị cơ bản.</p> <p> Sự lan rộng v&agrave; tầm quan trọng của c&aacute;c gi&aacute; trị trong văn ho&aacute; tổ chức về cơ bản li&ecirc;n quan đến qu&aacute; tr&igrave;nh t&acirc;m l&yacute; của sự h&igrave;nh th&agrave;nh nh&acirc;n dạng, trong đ&oacute; c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n dường như t&igrave;m kiếm một bản sắc x&atilde; hội mang &yacute; nghĩa v&agrave; sự li&ecirc;n kết (Ashforth &amp; Mael, 1989). Một nghi&ecirc;n cứu lớn đ&atilde; chỉ ra rằng c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n c&oacute; khuynh hướng ph&acirc;n loại th&agrave;nh c&aacute;c loại x&atilde; hội, như giới t&iacute;nh, chủng tộc, sắc tộc, v&agrave; tổ chức, v&agrave; sử dụng c&aacute;c loại n&agrave;y để tự x&aacute;c định. V&iacute; dụ, người ta c&oacute; vẻ đặc biệt c&oacute; khả năng ph&acirc;n biệt đối xử giữa c&aacute;c nh&oacute;m v&agrave; nh&oacute;m b&ecirc;n ngo&agrave;i v&agrave; thu h&uacute;t được những người được xem như tương tự như họ (Brewer, 1979, Moreland, 1985). Dựa tr&ecirc;n c&aacute;c gi&aacute; trị cơ bản, c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n c&oacute; thể quản l&yacute; cuộc sống theo c&aacute;ch gi&uacute;p họ lựa chọn vai tr&ograve;, nghề nghiệp, v&agrave; thậm ch&iacute; cả c&aacute;c tổ chức kh&aacute;c nhau (Albert &amp; Whetten, 1985, Sampson, 1978, Stryker &amp; Serpe, 1982). Schneider (1987) đề xuất rằng c&aacute;c c&aacute; nh&acirc;n c&oacute; thể bị thu h&uacute;t bởi c&aacute;c tổ chức m&agrave; họ cho l&agrave; c&oacute; gi&aacute; trị tương tự như của ri&ecirc;ng họ. Ngo&agrave;i ra, c&aacute;c tổ chức cố gắng lựa chọn t&acirc;n binh c&oacute; khả năng chia sẻ gi&aacute; trị của họ. Những người mới nhập cư sau đ&oacute; sẽ được x&atilde; hội ho&aacute; v&agrave; đồng ho&aacute; hơn, v&agrave; những người kh&ocirc;ng ph&ugrave; hợp để lại. Do đ&oacute;, c&aacute;c gi&aacute; trị c&aacute; nh&acirc;n cơ bản hoặc sở th&iacute;ch đối với c&aacute;c phương thức h&agrave;nh xử nhất định được thể hiện trong c&aacute;c lựa chọn tổ chức v&agrave; sau đ&oacute; được củng cố trong bối cảnh tổ chức./</p> <p> Nguyễn Huy Tu&acirc;n</p>