0236.3650403 (128)

ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN


ĐỖ VĂN TÍNH

Nông thôn. Cho đến nay, gần như chưa có định nghĩa nào về nông thôn được chấp nhận rộng rãi. Nếu cho rằng nông thôn là địa bàn có mật độ dân số thấp hơn thành thị thì chưa thỏa đáng vì chỉ tiêu này khác nhau giữa các nước và ngay ở nước ta thì một số vùng nông thôn so với nhiều thị xã thì mật độ dân số không thấp hơn.“Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã”.Đây là khái niệm dùng nhiều chỉ tiêu để đánh giá giữa nông thôn và thành thị, vì vậy nó mang tính toàn diện hơn và được nhiều người chấp nhận hơn.

Lao động nông thôn.Lao động nông thôn gồm những người đủ 15 tuổi trở lên thuộc khu vực nông thôn đang làm việc trong các ngành: nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì lí do khác nhau hiện tại chưa tham gia hoạt động kinh tế. Những người trong độ tuổi lao động nông thôn có khả năng lao động nhưng hiện tại chưa tham gia lao động do các nguyên nhân như đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ gia đình, không có nhu cầu làm việc, và những người thuộc tình trạng khác.

Nghề và đào tạo nghề cho lao động nông thôn.Theo giáo trình Kinh tế Lao động của trường Đại học Kinh tế quốc dân thì khái niệm nghề được hiểu như sau: “Nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là toàn bộ kiến thức và kỹ năng mà một người lao động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất định”.

Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học.

Đào tạo nghề cho người lao động nông thôn là quá trình giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề chuyên môn khác. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Những hoạt động nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có cho sự thực hiện có năng suất và hiệu quả trong phạm vi một nghề hoặc nhóm nghề. Nó bao gồm đào tạo ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và đào tạo liên quan đến nghề nghiệp chuyên sâu”. Như vậy, có thể hiểu, đào tạo nghề là hoạt động trang bị năng lực (kiến thức, kỹ năng và thái độ) hành nghề cho người lao động để người lao động có thể tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm.

Khái niệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn.Đào tạo nghề cho LĐNT là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó cho người lao động ở khu vực nông thôn, từ đó tạo ra năng lực cho người lao động đó có thể thực hiện thành công nghề đã được đào tạo.

Vai trò của đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn có vai trò hết sức cần thiết và quan trọng vì trang bị các kỹ năng, kiến thức nghề cho lao động nông thôn ở các cấp trình độ để góp phần giải quyết việc làm nuôi sống được bản thân, tăng năng suất lao động, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế, từng bước thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Tạo điều kiện cho lao động nông thôn và các đối tượng chính sách xã hội được tham gia học nghề với sự hỗ trợ của nhà nước, góp phần tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là khu vực nông thôn.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý hành chính, quản lý, điều hành kinh tế xã hội và thực thi công vụ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Ngoài ra vai trò của đào tạo nghề tác động trực tiếp tới đảm bảo an sinh xã hội, nhất là đối với nhóm lao động nông thôn, lao động nghèo. Thông qua việc trang bị các kiến thức, kỹ năng tối thiểu về nghề nghiệp từ các khóa đào tạo ngắn hạn, người lao động nông thôn, nông dân đã có khả năng nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, thoát được nghèo một cách bền vững.

Như vậy, đào tạo nghề vô hình chung, trở thành một nhân tố làm giảm số lượng những người “yếu thế” trên thị trường lao động và như vậy, xét ở khía cạnh quốc gia, an sinh xã hội được đảm bảo hơn, nhà nước đỡ phải chi phí nhiều hơn cho các loại trợ cấp xã hội, do nghèo đói và không có việc làm.

Các hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Đào tạo nghề chính quy

Theo quy định của Luật dạy nghề, đào tạo nghề chính quy được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các cơ sở dạy nghề theo các khóa học tập trung và liên tục.

Đào tạo nghề chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại các trung tâm dạy nghề, các trường nghề và quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ yếu là đào tạo các công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.

Việc đào tạo công nhân kỹ thuật thường được chia ra làm hai giai đoạn: Giai đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Giai đoạn học tập cơ bản là giai đoạn đào tạo nghề theo diện rộng, thường chiếm từ 70% đến 80% nội dung giảng dạy và tương đối ổn định. Còn trong giai đoạn học tập chuyên môn, người học được trang bị những kiến thức chuyên sâu và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo để nắm vững nghề đã chọn.

- Ưu điểm: Học sinh được học một cách có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức nhanh chóng và dễ dàng. Đào tạo tương đối toàn diện cả về lý thuyết lẫn thực hành.

Với hình thức đào tạo chính quy, sau khi đào tạo, học viên có thể chủ động, độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận các công việc tương đối phức tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Cùng với sự phát triển của sản xuất và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hình thức đào tạo này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật.

- Nhược điểm: Thời gian đào tạo tương đối dài. Đòi hỏi phải đầu tư lớn để đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, các cán bộ quản lý... nên kinh phí đào tạo cho một học viên là rất lớn.

Đào tạo nghề tại nơi làm việc (kèm cặp trong sản xuất)

Là hình thức đào tạo trực tiếp, trong đó người học sẽ được dạy những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc thông qua thực tế thực hiện công việc và thường là dưới sự hướng dẫn của những người lao động có trình độ cao hơn. Hình thức đào tạo này thiên về thực hành ngay trong quá trình sản xuất và thường là do các doanh nghiệp (hoặc các cá nhân sản xuất) tự tổ chức.

Chương trình đào tạo áp dụng cho hình thức đào tạo tại nơi làm việc và thường được chia ra làm ba giai đoạn: Giai đoạn đầu, người hướng dẫn vừa sản xuất vừa hướng dẫn cho học viên. Giai đoạn hai, giao việc làm thử cho học viên sau khi họ đã nắm được các nguyên tắc và phương pháp làm việc. Giai đoạn ba, giao việc hoàn toàn cho học viên sau khi họ đã có thể tiến hành làm việc một cách độc lập.

- Ưu điểm: Có khả năng đào tạo nhiều người cùng một lúc ở tất cả các doanh nghiệp, phân xưởng. Thời gian đào tạo ngắn. Không đòi hỏi điều kiện về trường lớp, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý, thiết bị học tập riêng... nên tiết kiệm chi phí đào tạo. Trong quá trình học tập, người học còn được trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, giúp họ có thể nắm chắc kỹ năng lao động.

- Nhược điểm: Việc truyền đạt và tiếp thu kiến thức không có tính hệ thống. Người dạy không có nghiệp vụ sư phạm nên hạn chế trong quá trình hướng dẫn, việc tổ chức dạy lý thuyết gặp nhiều khó khăn...nên kết quả học tập còn hạn chế. Học viên không được học các phương pháp tiên tiến mà còn có thể bắt chước những thói quen không tốt của người hướng dẫn. Vì vậy hình thức đào tạo này chỉ phù hợp với những công việc đòi hỏi trình độ không cao.

Tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp

Đây là hình thức đào tạo theo chương trình gồm hai phần lý thuyết và thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách. Còn phần thực hành thì được tiến hành ở các xưởng thực tập do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn. Hình thức đào tạo này chủ yếu tập trung áp dụng để đào tạo cho những nghề phức tạp, đòi hỏi có sự hiểu biết rộng về lý thuyết và độ thành thục cao.

- Ưu điểm: Dạy lý thuyết tương đối có hệ thống, đồng thời học viên lại được trực tiếp tham gia lao động ở các phân xưởng, tạo điều kiện cho họ nắm vững nghề. Bộ máy đào tạo gọn, chi phí đào tạo không lớn.

- Nhược điểm: Hình thức này chỉ áp dụng được ở những doanh nghiệp tương đối lớn và chỉ đào tạo cho các doanh nghiệp cùng ngành có tính chất giống nhau.

Đào tạo nghề tại các trung tâm dạy nghề

Là loại hình ĐTN ngắn hạn, phần lớn dưới 1 năm. Đối tượng chủ yếu là đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên và người lao động.

- Ưu điểm: Thu hút được đông đảo người học vì các thủ tục học thường dễ dàng, thời gian hợp lý. Nghề đào tạo đa dạng và thường các trung tâm đào tạo nghề gắn với giới thiệu việc làm nên hỗ trợ được cho người lao động trong tìm việc làm. Khả năng thích ứng nhanh với nhu cầu thị trường lao động, nhu cầu người học. Chi phí đầu tư đào tạo không lớn.

- Nhược điểm: Hạn chế của hình thức đào tạo này biểu hiện là quy mô nhỏ, kiến thức lý thuyết ở mức độ thấp, thiếu đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, thiếu các máy móc, thiết bị, phương tiện hiện đại cho thực hành nghề, đào tạo đa số là công nhân bán lành nghề.

Nội dung công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Nội dung của đào tạo nghề cho lao động nông thôn được thực hiện theo quy trình đào tạo nghề trong Quyết định số 1956 QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể xác định nhu cầu đào tạo nghề; xác định mục tiêu đào tạo nghề; xây dựng kế hoạch và phương thức đào tạo nghề; triển khai chương trình đào tạo nghề.

Xác định nhu cầu đào tạo nghề

Nhu cầu nhân lực cho sự phát triển các ngành kinh tế nước ta cụ thể: Nhu cầu nhân lực cho phát triển công nghiệp, xây dựng; nhu cầu nhân lực cho sự phát triển nông lâm nghiệp; nhu cầu nhân lực cho sự phát triển các ngành dịch vụ; nhu cầu nhân lực cho việc xuất khẩu lao động đã qua đào tạo; nhu cầu nhân lực cho đầu tư ngoài tại Việt Nam; nhu cầu nhân lực kỹ thuật cao... Việc xác định nhu cầu sử dụng lao động với những ngành nghề cụ thể của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức đào tạo nghề lao động nông thôn. Với việc xác định nhu cầu đào tạo này, các cơ sở đào tạo nhận định được quy mô đào tạo của mình. Đối với các địa phương khác nhau, hay các vùng miền khác nhau thì nhu cầu đào tạo cũng khác nhau. Vì vậy, các cơ sở đào tạo có chiến lược mở rộng khác nhau. Đối với vùng sâu vùng xa điều kiện kinh tế, đi lại khó khăn nên các lớp đào tạo thường đặt ngay tại địa phương. Đối với vùng kinh tế phát triển thì các lớp đào tạo thường đặt tập trung tạo điều kiện tốt nhất cho người học tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Ngoài ra, khi xác định nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn, cần xác định nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, những đòi hỏi, mong muốn của người cần được học nghề. Đồng thời, địa phương và các cơ sở đào tạo có những chiến lược phát triển nguồn nhân lực của mình phù hợp với sự phát triển kinh tế.

Xác định mục tiêu đào tạo nghề

Mục tiêu đào tạo là những kết quả mong muốn đạt được của quá trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thể hiện những yêu cầu về phát triển năng lực nghề nghiệp của người học mà quá trình đào tạo phải đạt được, số lượng và cơ cấu học viên, thời gian đào tạo.

Vậy mục tiêu đào tạo nghề ở đây đó là số lượng, đối tượng và thời gian đào tạo nghề, ngành nghề đào tạo và trình độ đào tạo cho lao động nông thôn. Với các địa phương khác nhau thì việc xác định mục tiêu khác nhau do nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo nghề. Với vùng kinh tế chậm phát triển, vùng sâu vùng xa... nơi này tập trung nhiều lao động nông thôn mục tiêu đào tạo đây đó là số lượng lao động phải lớn để người dân có cơ hội tiếp cận khoa học kỹ thuật. Thêm vào đó, là ngành nghề đào tạo cũng cần phải thiết thực với tình hình kinh tế thực tại như các nghề cơ khí, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề thủ công... giúp người lao động nâng cao thu nhập, giảm thời gian nông nhàn. Với vùng kinh tế phát triển, nơi đây người lao động có nhiều cơ hội xin việc tại các nhà máy công nghiệp thì mục tiêu đào tạo đây đó là các ngành nghề như điện tử, điện lạnh, điện dân dụng... để người lao động sau khi tốt nghiệp các lớp có thể xin vào các doanh nghiệp tại địa phương, trong khi các doanh nghiệp cũng đang cần những lao động này.

Xây dựng kế hoạch và phương thức đào tạo nghề

Xây dựng kế hoạch quyết định trước xem phải làm cái gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm cái đó. Nếu xây dựng kế hoạch tốt, tiết kiệm thời gian cho xã hội, cho cơ sở đào tạo, đặc biệt là sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước cho hoạt động đào tạo lao động nông thôn. Xây dựng kế hoạch cho biết phương hướng cũng như cáchthức, thời gian cho các cơ sở đào tạo có mục tiêu phát triển. Bên cạnh đó, xây dựng kế hoạch cần sát với tình hình thực tế của địa phương tránh tình trạng lao động một số ngành nghề thừa, doanh nghiệp, xã hội lại thiếu nguồn lao động cần thiết.

Phương thức đào tạo: Phương thức đào tạo gồm phương pháp và hình thức đào tạo. Khi kế hoạch rõ ràng các cơ sở đào tạo kết hợp với địa phương lên được phương án phương thức đào tạo phù hợp với từng địa phương khác nhau có thể là đào tạo tập trung hay đào tạo phi tập trung, thời gian đào tạo phù hợp cho đối tượng người học để nhiều đối tượng lao động nông thôn có những lựa chọn thích hợp cho mình.

Kinh phí đào tạo: Kinh phí đào tạo quyết định việc lựa chọn phương án đào tạo, kinh phí đào tạo nghề bao gồm các chi phí cho việc học tập, chi phí cho việc giảng dạy. Ngoài ra, chi phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn có chi phí hỗ trợ cho người học nghề.

Triển khai chương trình đào tạo nghề

Sau khi đã có xác định nhu cầu, có phương án đào tạo cụ thể và rõ ràng thì việc triển khai chương trình cũng cần sự linh hoạt để phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương.

- Mạng lưới cơ sở đào tạo nghề

Mạng lưới cơ sở đào tạo nghề của nước ta bao gồm các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề, các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề, một số trường đại học có dạy nghề, các cơ sở dạy nghề tư nhân đã đăng ký và chưa đăng ký, các hộ gia đình có dạy nghề. Khi tiến hành khảo sát mạng lưới cơ sở đào tạo nghề chúng ta cần xem xét đánh giá cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ đào tạo nghề, chương trình, giáo trình đào tạo nghề.

Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo đối với lao động nông thôn, đây thường là lao động có trình độ thấp nên trong quá trình học cần nhiều trang thiết bị cũng như cơ sở vật chất phục vụ việc học, người học dễ dàng tưởng tượng và thực hành mà không nặng về lý thuyết.

Trình độ giáo viên với thói quen là việc không theo kỹ luật cũng như trình độ nhận thức có nhiều hạn chế, nên việc tiếp thu kiến thức gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy cần có giáo viên có tâm huyết, trình độ sư phạm tốt có thể truyền đạt được kiến thức đến người học cũng như tạo được không khí thỏa mái, không có cảm giác ép buộc gò bó.

Ngành nghề đào tạo xã hội ngày càng phát triển, ngoài những ngành nghề truyền thống thì nhiều ngành nghề mới được xã hội có nhu cầu. Chính vì vậy, mục tiêu của đào tạo là phải đào tạo được những ngành nghề mà xã hội cần, đáp ứng đúng và đủ. Các cơ sở đào tạo cần có chiến lược phát triển cho mình, mở những ngành nghề xã hội cần chứ không phải những ngành nghề có khả năng đào tạo, những ngành nghề mà xã hội đang dư thừa. Có được ngành nghề thích hợp, điều này khuyến khích được một lượng lớn lao động nông nghiệp tham gia các lớp học. Góp phần nâng cao trình độ của người lao động nông thôn, cải thiện đời sống người dân, tăng cường chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực.

- Triển khai các hình thức đào tạo nghề: Là quá trình thực hiện các chính sách đào tạo nghề. Các cơ sở dạy nghề cần triển khai các chính sách của nhà nước về hỗ trợ đào tạo nghề, chính sách hỗ trợ học viên học nghề đối với lao động là người dân tộc thiểu số, là lao động khu vực khó khăn... cho từng địa phương một cách cụ thể, nhằm khuyến khích các lao động nông thôn có mong muốn được học nghề tham gia. Việc triển khai chính sách phải rộng rãi, đảm bảo công khai và đúng thực tế quy định trong các văn bản nhà nước.

- Kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo nghề.

+ Kiểm tra: Thu thập các thông tin về người học sau khóa học đào tạo nghề. Sau đó phán đoán, xác định xem mỗi người học sau khi học đã biết gì (kiến thức), làm được gì (kỹ năng nghề).

+ Đánh giá: Dựa vào kết quả kiểm tra, cơ sở đào tạo cần so sánh kết quả đã đạt được với mục tiêu, tiêu chí và tiêu chuẩn đào tạo, làm cơ sở để cấp văn bằng chứng chỉ cho người học.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.   Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh (2011), Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân

2.   Vũ Xuân Hùng (2010), “Tổ chức và quản lý quá trình đào tạo trong hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn”, Phó vụ trưởng Vụ chính sách – Pháp chế, Tổng cục dạy nghề.

3.   Tăng Minh Lộc (2011), “Thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Điều chỉnh lại cơ cấu lao động, cách dạy nghề”

4.   Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), “Bộ Luật Lao động”