0236.3650403 (128)

CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG


ĐỖ VĂN TÍNH

Cạnh tranh. Trong từ điển kinh doanh khái niệm cạnh tranh được hiểu là: Cạnh tranh trong đó mỗi người bán cố gắng để đạt được những gì người bán hàng khác đang tìm kiếm cùng một thời điểm như: doanh số, lợi nhuận và thị phần của sản phẩm cùng với sự kết hợp tốt nhất về giá cả, chất lượng, và dịch vụ. Trường hợp thông tin thị trường chảy tự do, cạnh tranh đóng một chức năng điều tiết cân đối cung cầu.

Cạnh tranh của các NHTM. Là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các NHTM trên thị trường về các sản phẩm dịch vụ nhằm mục đích tạo ra các lợi thế cụ thể như vốn, nhân lực, chiếm lĩnh thị phần, giành lấy khách hàng... và mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đó cần phải có sự kết hợp tối ưu về giá cả và chi phí; tăng chất lượng dịch vụ, quảng cáo...

Năng lực cạnh tranh. Theo Porter (1998) cho rằng năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra những sản phẩm có quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị gia tăng cao, phù hợp với nhu cầu khách hàng, có chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi nhuận.

Đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng

Theo TS. Nguyễn Trọng Tài (2008) cho rằng giống như bất kỳ chủ thể nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các NHTM đều phải đối diện với thực trạng cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng có những nét đặc thù nhất định như sau.

Thứ nhất, ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội,... Mỗi một nhân tố này khi có sự thay đổi đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản yếu thì sẽ trở thành gánh nặng cho cả hệ thống ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ cả hệ thống do tác động dây chuyền. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các NHTM là động lực thúc đẩy sự phát triển cả hệ thống chứ không mang tính triệt tiêu lẫn nhau.

Thứ hai, hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi hoạt động kinh tế – xã hội và chịu sự ảnh hưởng thường xuyên của các thị trường tài chính quốc tế nên NHNN phải giám sát chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng

Thứ ba, sự cạnh tranh của các NHTM là loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn các loại hình kinh doanh khác. Bởi vì, hoạt động kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như: môi trường pháp luật, cơ sở hạ tầng đặc biệt là công nghệ thông tin... Như vậy, một NHTM muốn cung ứng một dịch vụ mới cho khách hàng đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính.

Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng

Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng sẽ thông qua 5 tiêu chí cụ thể như sau: năng lực cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ, năng lực quản trị, năng lực công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực.

1. Năng lực tài chính

- Quy mô vốn và tổng tài sản. Quy mô vốn là một chỉ tiêu quan trọng để đo lường lợi thế kinh tế theo quy

mô. Quy mô vốn lớn tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng phạm vi tài trợ các hoạt động thương mại không chỉ ở tầm quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế; tạo khả năng cho NHTM đa dạng hoá các loại hình đầu tư và giảm thiểu những rủi ro khác. Quy mô tổng tài sản cho biết khả năng huy động vốn và sử dụng vốn trên thị trường tài chính – tiền tệ của mỗi ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh quy mô vốn của ngân hàng đó.

- Chất lượng tài sản. Hầu hết rủi ro kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có. Chất lượng tài sản sẽ phản ánh “sức khỏe” của một ngân hàng vì nó nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực của một ngân hàng... Chất lượng tài sản được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ nợ xấu, mức độ trích lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hóa của danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn.

- Khả năng thanh khoản. Khả năng thanh khoản là một tiêu chí có ý nghĩa trong việc so sánh năng lực cạnh tranh, là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình hoạt động của một ngân hàng. Do đó, đảm bảo khả năng thanh khoản là mục tiêu vô cùng quan trọng đối với NHTM. Nếu rủi ro thanh khoản xảy ra có thể làm suy giảm lợi nhuận của ngân hàng, nghiêm trọng hơn là có thể dẫn đến phá sản. Tính thanh khoản thể hiện thông qua chỉ tiêu: tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi (LDR) hoặc tổng tài sản lưu động trên tổng tài sản.

- Chi phí vốn đi vay. Chi phí vốn đi vay là yếu tố cơ bản để đo lường mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời. Do đó, xác định chi phí vốn đi vay rất hữu ích cho ngân hàng để xây dựng chính sách kinh doanh có hiệu quả và thể hiện tương đối chính xác được việc sử dụng nguồn vốn đi vay ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn. Theo Bikker và Groeneveld (1998); Hempell (2002); Shaffer et al. (2012), chi phí vốn đi vay được đại diện thông qua chi phí lãi trên tổng nguồn vốn sẳn sàng cho vay.

- Khả năng sinh lời. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một ngân hàng, đồng thời cũng là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện năng lực cạnh tranh của các NHTM. Các tổ chức tài chính quốc tế thường sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá năng lực hoạt động của các NHTM, trên cơ sở đó xác định NHTM có đủ điều kiện để tham gia trên thị trường tài chính toàn cầu hay không. Đánh giá khả năng sinh lợi của ngân hàng, người ta thường sử dụng hai chỉ tiêu cơ bản là tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).

2. Sản phẩm dịch vụ

Lý thuyết cạnh tranh chỉ ra rằng, cạnh tranh luôn xoay quanh các yếu tố: chất lượng, tính đa dạng và giá cả của sản phẩm dịch vụ. Những sản phẩm, dịch vụ mang những đặc trưng riêng là yếu tố quyết định việc khách hàng đến với các ngân hàng. Loại trừ cạnh tranh về phí và lãi suất, người ta cho rằng cạnh tranh của các NHTM tập trung vào mảng dịch vụ là chính. Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM người ta thường xem xét: (1) Số lượng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính do ngân hàng cung cấp và chủng loại sản phẩm trong mỗi danh mục. (2) Chất lượng dịch vụ tài chính ngân hàng thông qua các mặt như tính tiện ích, độ an toàn của sản phẩm; mức độ chính xác của sản phẩm; thời gian cung ứng sản phẩm cùng loại so với các ngân hàng khác; mức độ đơn giản hay phức tạp.

3. Năng lực quản trị

Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ ngân hàng nào là vai trò của những người lãnh đạo ngân hàng. Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của họ có đóng góp rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để ngân hàng có một chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài hạn. Thông thường đánh giá năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của một ngân hàng người ta xem xét đánh giá các chuẩn mực và các chiến lược mà ngân hàng xây dựng. Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt qua những bất ổn trên thị trường là bằng chứng cho năng lực quản trị cao của ngân hàng. Do đó, để đánh giá năng lực quản trị của các ngân hàng thông qua việc so sánh và phân tích các yếu tố định lượng như: khả năng sinh lợi, tỷ lệ nợ xấu và đảm bảo khả năng thanh khoản...

4. Năng lực công nghệ

Trong lĩnh vực ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh cạnh tranh. Sản phẩm Ngân hàng là mang tính đặc thù riêng, có hàm lượng công nghệ càng cao thì càng hiệu quả và bảo mật tốt. Các NHTM hiện nay đã và đang cố gắng tạo ra các sản phẩm ngày càng tiện ích và đa dạng để cung cấp cho khách hàng như: thẻ ATM, thẻ POS, giao dịch homebanking, phonebanking, internetbanking. Công nghệ góp phần tạo nên những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn cho các NHTM.

Theo tính toán và kinh nghiệm của các Ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Do đó để đạt được tiện ích và tiết kiệm chi phí thì phải nhờ vào vai trò của công nghệ. Công nghệ càng hiện đại, ngân hàng cung cấp ngày càng nhiều tiện ích cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của khách hàng. Ngân hàng nào có công nghệ càng hiện đại, lợi thế và năng lực cạnh tranh của nó càng được duy trì và gia tăng.

Theo tài liệu hướng dẫn của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF), đánh giá năng lực công nghệ thông qua phân tích định lượng là chi phí – lợi ích sẽ được thể hiện qua chi phí sử dụng tài sản cố định.

5. Chất lượng nguồn nhân lực

Hoạt động trong một ngành đặc thù, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đối với năng lực cạnh tranh của NHTM. Một đội ngũ cán bộ thừa hành, nhân viên giỏi có khả năng sáng tạo, có khả năng thực thi chiến lược và khả năng tham gia hoạch định chiến lược,... sẽ mang lại cho ngân hàng một sự hoạt động ổn định và bền vững.

Để đánh giá và so sánh chất lượng nguồn nhân lực, các nghiên cứu Bikker và Groeneveld (1998); Hempell (2002); Shaffer et al. (2012) cho răng sử dụng yếu tố định lượng như: chi phí nhân viên hoặc chi phí nhân viên trên tổng tài sản. Ngoài ra, theo Mkrtchyan (2005); Mensi (2009) cho rằng chi phí nhân viên trên số lượng nhân viên đại diện cho chất lượng nguồn nhân lực.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Porter, M., 1998. Competitive Strategy – Techniques for Analyzing Industries and Competitors, The Free Press.
  2. Lê Trung Hải, 2014. Mức độ tập trung và cạnh tranh thị trường tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí ngân hàng, Số 23.
  3. Nguyễn Trọng Tài, 2008. Cạnh tranh của các ngân hàng thương mại – nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 3/2008