0236.3650403 (128)

NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN THU THUẾ TÀI NGUYÊN VIỆT NAM


ThS. Hoàng Thị Xinh

 Về đối tượng chịu thuế: Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành quy định về thuế tài nguyên đối với “dầu mỏ”, “khí đốt”. Tại Luật Dầu khí lại quy định “dầu thô” và “khí thiên nhiên” đối với tài nguyên dầu, khí; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2008 lại bổ sung thêm loại tài nguyên nữa là “khí than”. Vì vậy, cần quy định đối tượng chịu thuế là “Dầu thô” thay cho “Dầu mỏ”; “Khí thiên nhiên” thay cho “Khí đốt” và bổ sung thêm “khí than” vào đối tượng chịu thuế để đảm bảo tính thống nhất về thuật ngữ và sự đầy đủ về chủng loại tài nguyên.

Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành quy định đối tượng chịu thuế là “Thuỷ sản tự nhiên”, bao gồm các loại động vật, thực vật ở biển, sông, ngòi, hồ, đầm, phá, kênh, rạch tự nhiên. Trên thực tế việc khai thác thuỷ sản tự nhiên tại các sông, ngòi, hồ, đầm, phá, kênh, rạch thì người đánh bắt chủ yếu là nông dân đánh bắt thủ công theo thời vụ. Một số ít sống bằng nghề chài lưới trên sông, hồ vẫn phải làm thêm nghề khác để đảm bảo cuộc sống và một bộ phận thuộc diện hộ nghèo; Thuế tài nguyên hầu hết chỉ thu đối với thuỷ sản tự nhiên khai thác trên biển (hải sản). Do vậy, cần quy định đối tượng chịu thuế là Hải sản tự nhiên thay cho Thuỷ sản tự nhiên để đảm bảo tính khả thi.

- Về đối tượng nộp thuế: Theo Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành thì trường hợp Bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên thì doanh nghiệp liên doanh không phải nộp thuế tài nguyên đối với số tài nguyên mà Bên Việt Nam dùng để góp vốn pháp định (khi đó thuế tài nguyên trở thành vốn góp của phía Việt Nam trong liên doanh). Quy định này chưa phù hợp với tình hình thực tế và chưa phù hợp với Luật Đầu tư hiện hành, theo đó nếu doanh nghiệp liên doanh được thành lập giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thì người nộp thuế là doanh nghiệp liên doanh; nếu các nhà đầu tư tổ chức dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh để khai thác tài nguyên thì nghĩa vụ thuế tài nguyên do các bên thoả thuận trước trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.

- Về căn cứ tính thuế: Pháp lệnh thuế tài nguyên quy định: căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất.

Căn cứ tính thuế tài nguyên đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than (sau đây gọi là dầu, khí) được thực hiện theo các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Dầu khí. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2008 chỉ quy định viện dẫn: Tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động dầu khí phải nộp các khoản thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Do đó, để đảm bảo có đủ cơ sở pháp lý, cần bổ sung quy định về thuế tài nguyên đối với dầu, khí tại văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên.

- Về sản lượng tính thuế: Theo Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành, sản lượng tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác. Sản lượng tài nguyên thương phẩm là sản lượng tài nguyên được bán ra. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều loại tài nguyên khai thác, chưa bán ra ngay mà đưa vào để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm khác. Khi đó, sản lượng tài nguyên tính thuế được căn cứ vào sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ và định mức tiêu hao tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm. Như vậy, sản lượng tài nguyên tính thuế trong trường hợp này không phải là sản lượng tài nguyên thương phẩm, mà là sản lượng tài nguyên thực tế khai thác.

- Về giá tính thuế: Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành quy định: Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên tại nơi khai thác. Trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán thì Chính phủ quy định giá tính thuế tài nguyên.

Trên thực tế, do chất lượng, hàm lượng tài nguyên khai thác được là khác nhau, lượng tạp chất khai thác được cùng với tài nguyên nhiều nên việc xác định giá tính thuế tài nguyên trong trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán cũng rất khác nhau và hiện nay mỗi địa phương áp dụng một cách dẫn đến sự không thống nhất về giá tính thuế. Vì vậy, cần có quy định về nguyên tắc xác định giá tính thuế của các loại tài nguyên để các địa phương có cơ sở áp dụng thống nhất.

Quá trình thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên cho thấy có rất ít tài nguyên được bán tại nơi khai thác mà chủ yếu tài nguyên được bán sau khi đã chế biến, sàng tuyển, phân loại, chọn lọc. Hơn nữa, việc xác định “giá bán tài nguyên tại nơi khai thác” như tại tỉnh, huyện hoặc xã để xác định giá tính thuế là vấn đề gây tranh cãi trong quá trình thực hiện. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm này, cần quy định: “Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác”.

- Về miễn, giảm thuế:Theo Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành, dự án thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư quy định tại Luật Khuyến khích đầu tư trong nước có khai thác tài nguyên (trừ dầu, khí) được giảm tối đa 50% thuế tài nguyên trong ba năm đầu kể từ khi bắt đầu khai thác. Hiện tại Luật Khuyến khích đầu tư trong nước không còn hiệu lực; hơn nữa, Luật Đầu tư ban hành năm 2005 đã quy định thống nhất về chính sách ưu đãi giữa các loại hình đầu tư. Do vậy, cần sửa đổi nội dung này để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.

Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành cũng quy định: Miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng vào sản xuất thuỷ điện không hoà vào mạng lưới điện quốc gia. Việc miễn thuế trong trường hợp này không hợp lý, nhất là trong bối cảnh nhiều nguồn thuỷ điện cung cấp điện nhưng không hoà vào mạng lưới điện quốc gia như hiện nay. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy định này nhằm đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế.

Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành quy định: Đối với nước thiên nhiên dùng phục vụ các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và nước thiên nhiên khai thác từ giếng đào, giếng khoan phục vụ sinh hoạt, áp dụng mức thuế suất là 0%. Để đảm bảo giảm thiểu thủ tục hành chính, cần thiết đưa đối tượng này vào diện được miễn thuế.

- Về đăng ký, kê khai, nộp thuế: Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1998 có 11 Điều (Điều 8, 9 và các Điều từ 11 đến Điều 19) quy định về đăng ký, kê khai, nộp thuế; xử lý vi phạm, khen thưởng; khiếu nại, thời hiệu; tổ chức thực hiện. Trong khi đó, Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 và bãi bỏ các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh về thuế mà Luật Quản lý thuế có quy định.

Thêm vào đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì không quy định chương riêng về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong văn bản quy phạm pháp luật nếu không có nội dung mới.

Do vậy, những nội dung về quản lý thuế, thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm tại Pháp lệnh thuế tài nguyên hiện hành cần phải sửa đổi lại cho phù hợp và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế của chính sách thuế tài nguyên hiện hành, đảm bảo xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn và các Luật có liên quan, cần thiết phải ban hành Luật thuế tài nguyên. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 6 ngày 25 tháng 11 năm 2009, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật thuế tài nguyên thay thế Pháp lệnh thuế tài nguyên số 05/1998/PL-UBTVQH10 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài nguyên số 07/2008/PL-UBTVQH12 nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2010.

KẾT LUẬN

          Trong điều kiện các nguồn lực để phát triển kinh tế còn chưa đủ mạnh, tài nguyên là nguồn lực đóng vai trò quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian qua, sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác, chế biến tài nguyên đã cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào đáng kể cho các ngành sản xuất khác, góp phần ổn định dần sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, do có sự khó khăn về kinh tế, dẫn đến hạn chế nhất định về công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng tài nguyên. Thêm vào đó, các địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức về vai trò của tài nguyên thiên nhiên. Cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, sự hội nhập quốc tế, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế ngày càng tăng. Tài nguyên được khai thác và sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo. Trong khi hoạt động kinh doanh khai thác tài nguyên thu được lợi nhuận thì công tác quản lý tài nguyên chưa được thực hiện một cách hiệu quả, hoạt động khai thác tài nguyên diễn ra tràn lan, khai thác không phép, khai thác vượt phép, xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn diễn ra. Hệ quả của nó là thất thoát tài nguyên, thất thu ngân sách, gây mất ổn định xã hội và ô nhiễm môi trường.

Chính sách thuế tài nguyên nói chung và việc quy định mức thuế suất thuế tài nguyên nói riêng là một trong những công cụ cho thấy được tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và phát triển bền vững nói chung.