0236.3650403 (128)

CHỈ SỐ TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI ĐIỀU CHỈNH THEO MÔI TRƯỜNG – EDP


<p style="text-align: justify;"> <strong>Đỗ Văn T&iacute;nh</strong></p> <p> &nbsp;</p> <p> Theo thông lệ qu&ocirc;́c t&ecirc;́, hiện nay, GDP được tính toàn bộ k&ecirc;́t quả đã làm ra không loại trừ ph&acirc;̀n tài nguyên mà con người đã khai thác và không loại trừ chi phí c&acirc;̀n thi&ecirc;́t đ&ecirc;̉ khôi phục lại môi trường. Ví như khi khai thác d&acirc;̀u khí sẽ làm tăng GDP nhưng chính nó lại làm m&acirc;́t đi ngu&ocirc;̀n tài nguyên quý giá mà con người đã sử dụng (khai thác). Thậm chí n&ecirc;́u như trong quá trình khai thác, vận chuy&ecirc;̉n, ch&ecirc;́ bi&ecirc;́n...bị sự c&ocirc;́ làm tràn d&acirc;̀u, làm ô nhi&ecirc;̃m môi trường nước, không khí... thì người ta còn phải chi phí thêm đ&ecirc;̉ khắc phục hậu quả đó. Song những chi phí này lại làm tăng GDP. Vì vậy, chúng ta c&acirc;̀n có các chỉ tiêu mà có th&ecirc;̉ tính được t&ocirc;́c độ tăng trưởng của Qu&ocirc;́c gia và phải loại trừ ph&acirc;̀n thiệt hại tài nguyên, kh&acirc;́u trừ những chi phí đ&ecirc;̉ phục h&ocirc;̀i môi trường. Những chỉ tiêu này sẽ cung c&acirc;́p cho ta cái nhìn chính xác hơn v&ecirc;̀ lợi nhuận khi sản xu&acirc;́t và t&ocirc;́c độ tăng trưởng.</p> <p> <strong><em>EDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product)</em></strong>- chỉ s&ocirc;́ sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội đi&ecirc;̀u chỉnh theo môi trường là một chỉ s&ocirc;́ t&ocirc;̉ng hợp trong k&ecirc;́ toán môi trường là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá thực sự t&ocirc;́c độ tăng trưởng của một n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́.</p> <p> I. Chỉ sốEDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product)</p> <p> EDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product) được gọi là chỉ s&ocirc;́ sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội đi&ecirc;̀u chỉnh theo môi trường là một chỉ s&ocirc;́ t&ocirc;̉ng hợp trong k&ecirc;́ toán môi trường. Chỉ s&ocirc;́ này được tính toán bằng cách trừ đi các chi phí do sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường từ t&ocirc;̉ng sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội ròng (NDP). Tương ứng với giá trị gia tăng (VA) trong NDP thì ta có giá trị gia tăng đi&ecirc;̀u chỉnh theo môi trường (EVA). Có hai loại chỉ s&ocirc;́ EDP, EDP I, tính toán theo giá thị trường chỉ trừ đi chi phí suy kiệt tài nguyên, và EDP II, được tính toán theo giá trị chi phí duy trì thì bao g&ocirc;̀m cả chi phí suy thoái môi trường.</p> <p> + Chi phí do sự cạn kiệt tài nguyên. Các nước mà có n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ phụ thuộc vào ngu&ocirc;̀n lực tài nguyên thiên nhiên như g&ocirc;̃, cá, các sản ph&acirc;̉m nông nghiệp khoáng sản và du lịch c&acirc;̀n phải thực hiện tính toán chi phí sử dụng tài nguyên c&acirc;̉n thận. Chỉ tính toán những giá trị lợi ích của việc khai thác tài nguyên mà không tính đ&ecirc;́n những m&acirc;́t mát vĩnh vi&ecirc;̃n từ ngu&ocirc;̀n lợi này là một sai l&acirc;̀m cơ bản trong phân tích tài chính kinh t&ecirc;́, mà hậu quả của nó có th&ecirc;̉ ảnh hưởng lớn đ&ecirc;́n kinh t&ecirc;́ của qu&ocirc;́c gia sau này. Do đó, nên coi tài nguyên như một loại v&ocirc;́n đ&ecirc;̉ tính toán chi phí.</p> <p> + Chi phí suy thoái môi trường. Việc tính toán phí t&ocirc;̉n của ô nhi&ecirc;̃m hay sự suy thoái môi trường không d&ecirc;̃ dàng do chúng không th&ecirc;̉ định lượng giá trị trên thị trường như các hoạt động kinh t&ecirc;́. Chúng ta chỉ có th&ecirc;̉ cảm nhận được ảnh hưởng tiêu cực của nó đ&ecirc;́n sức khỏe con người và xã hội. Do đó yêu c&acirc;̀u đặt ra với các nhà làm chính sách đó là làm rõ những ảnh hưởng của các y&ecirc;́u t&ocirc;́ này đ&ecirc;́n các hoạt động kinh t&ecirc;́. Ví dụ như tính toán chi phí tài nguyên thiên nhiên gắn với sự suy thoái môi trường và đưa vào các hạng mục k&ecirc;́ toán phù hợp.</p> <p> Việc đánh giá đúng các chi phí trên có th&ecirc;̉ giúp các nhà quản lý thay đ&ocirc;̉i chính sách phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́ dựa trên tải trọng môi trường một các hợp lý hơn, nhằm đảm bảo sự phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́ một cách b&ecirc;̀n vững.</p> <p> <strong>Ý nghĩa của chỉ s&ocirc;́ EDP</strong></p> <p> Chỉ s&ocirc;́ EDP v&ocirc;́n là một chỉ s&ocirc;́ quan trọng trong việc đánh giá sự tăng trưởng của một n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́, tuy nhiên chỉ s&ocirc;́ này thường bỏ qua các tác động gây t&ocirc;̉n th&acirc;́y tới môi trường của các hoạt động kinh t&ecirc;́ từ đó cho ta th&acirc;́y một bức tranh sai lệch v&ecirc;̀ hoạt động sản xu&acirc;́t và tiêu thụ. T&ocirc;̉ng thu nhập qu&ocirc;́c dân vì th&ecirc;́ không th&ecirc;̉ là một chỉ s&ocirc;́ th&ecirc;̉ hiện sự phát tri&ecirc;̉n b&ecirc;̀n vững của n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ n&ecirc;́u không có sự đi&ecirc;̀u chỉnh lại. Bên cạnh đó, sự suy thoái môi trường có th&ecirc;̉ coi là một khoản chi phí trong t&ocirc;̉ng thu nhập mà có th&ecirc;̉ thay đ&ocirc;̉i đáng kẻ giữa hai qu&ocirc;́c gia và không th&ecirc;̉ có tiêu chu&acirc;̉n đ&ecirc;̉ so sánh theo thời gian hay địa lý. Do đó, c&acirc;̀n tính toán chi phí suy thoái môi trường như một loại v&ocirc;́n từ nhiên bên cạnh v&ocirc;́n sản xu&acirc;́t và vào t&ocirc;̉ng thu nhập qu&ocirc;́c dân. Những đi&ecirc;̀u chỉnh này sẽ cung c&acirc;́p cho ta cái nhìn chính xác hơn v&ecirc;̀ lợi nhuận khi sản xu&acirc;́t, và dĩ nhiên, t&ocirc;́c độ tăng của những chi phí này đang tăng nhanh hơn so với t&ocirc;́c độ tăng trưởng kinh t&ecirc;́, và EDP sẽ th&acirc;́p hơn GDP. Và từ đó, n&ecirc;́u tại khu vực nào xảy ra tình trạng suy thoái môi trường thì chỉ s&ocirc;́ này là chỉ s&ocirc;́ hợp lý hơn chỉ s&ocirc;́ GDP cho việc đánh giá các chỉ tiêu b&ecirc;̀n vững.</p> <p> <strong>Tuy nhiên chỉ s&ocirc;́ EDP cũng có những nhược đi&ecirc;̉m</strong></p> <p> - Chỉ s&ocirc;́ này chỉ cho th&acirc;́y v&ecirc;̀ mức độ suy giảm của môi trường hay là sự thi&ecirc;́u b&ecirc;̀n vững chứ không th&ecirc;̉ chứng minh được như là một bằng chứng v&ecirc;̀ sự phát tri&ecirc;̉n b&ecirc;̀n vững. Hơnnữa, chỉ s&ocirc;́ này được tính toán theo giá trị quy ra của tài nguyên thiên nhiên. Giá trị của tài nguyên thiên nhiên thường thay đ&ocirc;̉i hàng năm dựa theo tình hình th&ecirc;́ giới chứ không phụ thuộc vào độ quý hi&ecirc;́m của tài nguyên, do đó sẽ có khả năng xảy ra là dù khai thác với s&ocirc;́ lượng lớn nhưng giá lại giảm nên do đó chi phí tài nguyên tính toán được lại giảm, đưa ra cái nhìn sai lệch. Vì vậy, c&acirc;̀n phải tính toán dựa trên cả s&ocirc;́ lượng tài nguyên suy giảm và giá trị thị trường.</p> <p> <strong>Công thức tính chỉ s&ocirc;́ EDP</strong></p> <p> EDP = &sum;EVAi - ECh = NDP - EC = C + CF - CC - EC + X &ndash; M</p> <p> <em>Trong đó:</em></p> <p> EVAi: giá trị gia tăng của công nghiệp đi&ecirc;̀u chỉnh theo môi trường</p> <p> ECh: chi phí suy kiệt tài nguyên và suy giảm môi trường</p> <p> NDP: T&ocirc;̉ng sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội ròng</p> <p> C: tiêu dùng cá nhân</p> <p> CF: c&acirc;́u trúc v&ocirc;́n</p> <p> CC: Tiêu dùng v&ocirc;́n c&ocirc;́ định</p> <p> EC: Chi phí môi trường</p> <p> X: giá trị kim ngạch xu&acirc;́t kh&acirc;̉u</p> <p> M: Giá trị kim ngạch nhập kh&acirc;̉u</p> <p> Tùy theo cách tính toán thì chỉ s&ocirc;́ EDPi chỉ trừ đi chi phí suy kiệt tài nguyên còn EDP2 bao g&ocirc;̀m cả chi phí suy thoái môi trường.</p> <p> <strong>So sánh chỉ s&ocirc;́ EDP với GDP xanh</strong></p> <p> <em>GDP xanh là gì</em></p> <p> Đ&ecirc;̉ đo lường k&ecirc;́t quả t&ocirc;̉ng hợp của quá trình hoạt động sản xu&acirc;́t của một địa phương hoặc toàn bộ n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ qu&ocirc;́c dân trong một khoảng thời gian nào đó: 1 tháng, một quý hoặc 1 năm người ta thường dùng chỉ tiêu GDP. Hiện nay, một s&ocirc;́ nhà kinh t&ecirc;́ còn nhắc tới chỉ tiêu GDP xanh (Green GDP). Vậy Green GDP là gì? Quả thực, đ&ecirc;́n nay chưa có một khái niệm chính thức v&ecirc;̀ chỉ tiêu này và các nhà th&ocirc;́ng kê cũng chưa xây dựng nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu một cách cụ th&ecirc;̉.</p> <p> Xu&acirc;́t phát từ tên gọi của chỉ tiêu, chúng tôi cho rằng, GDP xanh là ph&acirc;̀n GDP còn lại sau khi kh&acirc;́u trừ một ph&acirc;̀n chi phí c&acirc;̀n thi&ecirc;́t đ&ecirc;̉ phục h&ocirc;̀i môi trường do hậu quả của quá trình tái sản xu&acirc;́t gây ra.</p> <p> GDP xanh = GDP - Chi phí đ&ecirc;̉ phục h&ocirc;̀i lại môi trường như đ&acirc;̀u kì k&ecirc;́ toán (nói cách khác là toàn bộ các khoản chi phí nhằm tái tạo môi trường như trước khi bước vào chu kì sản xu&acirc;́t di&ecirc;̃n ra).</p> <p> Sự xu&ocirc;́ng c&acirc;́p của môi trường do 2 nhóm nguyên nhân: Một là nhóm các nguyên nhân do k&ecirc;́t quả của quá trình phát tri&ecirc;̉n sản xu&acirc;́t: đ&ecirc;̉ tái sản xu&acirc;́t mở rộng người ta c&acirc;̀n huy động các ngu&ocirc;̀n lực vào sản xu&acirc;́t nhi&ecirc;̀u hơn; phải thải ra môi trường nhi&ecirc;̀u ch&acirc;́t thải hơn ở t&acirc;́t cả các dạng: Th&ecirc;̉ rắn, th&ecirc;̉ lỏng, th&ecirc;̉ khí... Hai là nhóm các nguyên nhân do sinh hoạt của dân cư tạo ra: Đó là các ch&acirc;́t thải sinh hoạt hàng ngày. Nó cũng có cả ch&acirc;́t thải rắn, khí và nước; Chỉ tiêu GDP xanh chỉ liên quan đ&ecirc;́n những chi phí đ&ecirc;̉ phục h&ocirc;̀i môi trường do sản xu&acirc;́t gây ra. Những chi phí đ&ecirc;̉ làm sạch môi trường do sinh hoạt của dân cư gây ra, theo chúng tôi, nó là ph&acirc;̀n trong k&ecirc;́t quả hoạt động của lĩnh vực dịch vụ vệ sinh môi trường.</p> <p> <em>So sánh EDP và GDP xanh</em></p> <p> * Gi&ocirc;́ng nhau. V&ecirc;̀ cơ bản cả EDP và GDP xanh đ&ecirc;̀u là các chỉ s&ocirc;́ quan trọng trong việc đánh giá sự tăng trưởng của một n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́.</p> <p> * Khác nhau. Như chúng ta đã bi&ecirc;́t, EDP được tính toán bằng cách trừ đi các chi phí do sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường từ t&ocirc;̉ng sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội ròng (NDP) còn GDP xanh là ph&acirc;̀n GDP còn lại sau khi kh&acirc;́u trừ một ph&acirc;̀n chi phí c&acirc;̀n thi&ecirc;́t đ&ecirc;̉ phục h&ocirc;̀i môi trường do hậu quả của quá trình tái sản xu&acirc;́t gây ra. NDP hay sản lượng ròng, là một đo lường quan trọng v&ecirc;̀ lượng sản lượng có th&ecirc;̉ được tiêu dùng, không đụng đ&ecirc;́n hay giữ nguyên trữ lượng v&ocirc;́n và NDP = GDP &ndash; kh&acirc;́u hao. Đây chính là đi&ecirc;̀u khác nhau cơ bản giữa EDP và GDP xanh.</p> <p> N&ecirc;́u kh&acirc;́u hao v&ocirc;́n là r&acirc;́t lớn trên bình diện toàn n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́, thì ngay cả những mức đ&acirc;̀u tư gộp lớn cũng có th&ecirc;̉ không đủ đ&ecirc;̉ h&ocirc;̃ trợ tăng trưởng nhanh trong dài hạn. Đó là lý do mà các sinh viên kinh t&ecirc;́ phát tri&ecirc;̉n thường chú ý nhi&ecirc;̀u hơn vào sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội ròng (net domestic product &ndash; NDP).</p> <p> Trong thực t&ecirc;́, GDP được sử dụng thường xuyên hơn nhi&ecirc;̀u so NDP. Như Bộ Thương mại đã giải thích từ năm 1947, sản ph&acirc;̉m ròng là &rdquo;sự ưa thích v&ecirc;̀ mặt lý thuy&ecirc;́t... Quy&ecirc;́t định như vậy là vì khó mà đo lường chính xác kh&acirc;́u hao, Bộ Thương mại đã chọn sản ph&acirc;̉m gộp hơn là sản ph&acirc;̉m ròng, và đã thực hiện đi&ecirc;̀u này từ đó (cũng như h&acirc;̀u h&ecirc;́t các qu&ocirc;́c gia khác đã thực hiện). Tuy nhiên, chỉ s&ocirc;́ này v&acirc;̃n là một chỉ s&ocirc;́ quan trọng đ&ecirc;̉ các nước định hướng chính sách kinh t&ecirc;́ một cách hiệu quả, đặc biệt là với các nước đang phát tri&ecirc;̉n, với n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ phụ thuộc nhi&ecirc;̀u vào việc khai thác tài nguyên khoáng sản, đ&acirc;́t đai và các ngu&ocirc;̀n tài nguyên khác.</p> <p> <strong>Chỉ s&ocirc;́ t&ocirc;̉ng s&ocirc;́ sản ph&acirc;̉m qu&ocirc;́c nội đi&ecirc;̀u chỉnh theo môi trường (edp) của Việt Nam và một s&ocirc;́ nước trên th&ecirc;́ giới</strong></p> <p> <strong><em>Thực trạng ở Việt Nam</em></strong></p> <p> Từ các tài liệu mà nhóm đã nghiên cứu cho th&acirc;́y, một s&ocirc;́ nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã đ&ocirc;̀ng nh&acirc;́t EDP và GDP xanh theo công thức:</p> <p> GDPxanh = GDPtruy&ecirc;̀n th&ocirc;́ng &ndash; Th&acirc;́t thoát của tài nguyên thiên nhiên &ndash; Chi phí ô nhi&ecirc;̃m/Bi&ecirc;́n đ&ocirc;̉i khí hậu.</p> <p> Trong đó:</p> <p> - Th&acirc;́t thoát tài nguyên thiên nhiên: giảm sản ph&acirc;̉m/ch&acirc;́t lượng và diện tích rừng, đ&acirc;́t sản xu&acirc;́t, đ&acirc;́t dự trữ, hệ động vật và hệ thực vật, ngu&ocirc;̀n gen, hệ sinh thái, và tài nguyên khoáng sản...</p> <p> - Chi phí ô nhi&ecirc;̃m/bi&ecirc;́n đ&ocirc;̉i khí hậu: sức khỏe cộng đ&ocirc;̀ng, cung c&acirc;́p nước, tr&ocirc;̀ng trọt, thủy sản, hạn hán, thiên tai... do k&ecirc;́t quả của suy thoái môi trường.</p> <p> Việt Nam đã đưa vào tính toán thử nghiệm GDP xanh và được thực hiện đ&ocirc;́i với tài khoản năng lượng và tài khoản ô nhi&ecirc;̃m không khí (đ&ocirc;́i với CO2) dựa trên cơ sở dữ liệu th&ocirc;́ng kê Việt Nam đ&ecirc;́n năm 2020. Do Việt Nam chưa có s&ocirc;́ liệu v&ecirc;̀ ma trận hệ s&ocirc;́ ch&acirc;́t thải trực ti&ecirc;́p nên các nhà nghiên cứu đã áp dụng những s&ocirc;́ liệu đó cho CO2 từ một dự án của Viện Tài nguyên Th&ecirc;́ giới gọi là Khuynh hướng Th&ecirc;́ giới (EarthTrend). Đ&ecirc;̉ việc tính toán được &ocirc;̉n đinh, n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ Việt Nam cũng được chia thành 6 ngành như phân tích trong dự án của WRI. Các ngành bao g&ocirc;̀m Điện, năng lượng khác, công nghiệp và xây dựng, giao thông, quản lý nhà nước và các ngành &ldquo;khác&rdquo;.</p> <p> Từ bảng Input &ndash; Output năm 2017, n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ Việt Nam được tập hợp thành 6 ngành k&ecirc;̉ trên và như vậy một bảng Input &ndash; Output mới đã được thi&ecirc;́t lập. Các tài nguyên thiên nhiên năng lượng bao g&ocirc;̀m than, d&acirc;̀u thô và khí đ&ocirc;́t đã được tính toán trực ti&ecirc;́p từ bảng Input &ndash; Output. Đ&ocirc;́i với các năm khác (2018- 2020), các tài khoản đã được tính toán bằng cách đi&ecirc;̀u chỉnh nhu c&acirc;̀u cu&ocirc;́i cùng đã tăng lên tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng của các c&acirc;́u thành nhu c&acirc;̀u cu&ocirc;́i cùng riêng lẻ. Hai ma trận hệ s&ocirc;́ của tài nguyên năng lượng tự nhiên và ô nhi&ecirc;̃m không khí đã được thi&ecirc;́t lập cho việc tính toán.</p> <p> Đ&ocirc;́i với tài nguyên năng lượng. Các k&ecirc;́t quả tính toán cho th&acirc;́y giá trị to lớn của tài nguyên đã bị giảm đi do sử dụng than, d&acirc;̀u, khí đ&ocirc;́t trong n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ Việt Nam. Năm 2017 là 36.371 tỷ đ&ocirc;̀ng trong khi con s&ocirc;́ tương ứng năm 2019và 2020là 45.213 tỷ đ&ocirc;̀ng và 47.931 tỷ đ&ocirc;̀ng. Chỉ trong v&agrave;i năm cu&ocirc;́i, giá trị tiêu dùng tài nguyên năng lượng đã tăng 32%. Mức tăng sử dụng năng lượng dường như có khuynh hướng vượt mức tăng GDP tương ứng. T&acirc;́t nhiên, c&acirc;̀n lưu ý rằng những tài nguyên năng lượng không tái tạo này bao g&ocirc;̀m toàn bộ t&ocirc;̉ng năng lượng đã sử dụng trong n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́. Nguyên nhân là do Việt Nam cũng nhập kh&acirc;̉u nhiên liệu từ các nước khác trên th&ecirc;́ giới.</p> <p> Đ&ocirc;́i với ô nhi&ecirc;̃m CO2. Phát thải khí CO2 năm 2017 được tính toán ở mức 129,3 t&acirc;́n. Năm 2020, con s&ocirc;́ tương ứng tăng lên mức 169,7 triệu t&acirc;́n, tăng 31,2%. Đi&ecirc;̀u này phản ánh kinh t&ecirc;́ Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào năng lượng khai khác trong nước và phát thải năng lượng đã tăng khá nhanh. Phát thải khí CO2 tăng là do xu&acirc;́t kh&acirc;̉u tài nguyên năng lượng thô như d&acirc;̀u thô cũng tăng đáng k&ecirc;̉, đạt 41,6 triệu t&acirc;́n trong năm 2017; 48,9 triệu t&acirc;́n trong năm 2019; 61,8 triệu t&acirc;́n năm 2020. Ngành điện, ngành công nghiệp và xây dựng và ngành giao thông là ba nguyên nhân chính của phát thải CO2 ở Việt Nam. Năm 2020, tỷ lệ gây ô nhi&ecirc;̃m CO2 của những ngành này l&acirc;̀n lượt là 22,4%, 34,9% và 27,2%. Tỷ lệ này không khác nhi&ecirc;̀u so với năm 2017, công nghiệp và xây dựng luôn là khu vực tạo phát thải CO2 ra môi trường lớn nh&acirc;́t. Theo cơ c&acirc;́u phát thải theo nhu c&acirc;̀u sử dụng cu&ocirc;́i cùng, có sự khác nhau giữa các ngành kinh t&ecirc;́. Trong ngành năng lượng hay ngành điện, tiêu dùng cảu hộ gia đình và chính phủ chi&ecirc;́m tỷ lệ vượt trội, phát thải với khoảng 50% hoặc nhi&ecirc;̀u hơn.</p> <p> Ta th&acirc;́y, các giá trị của GDP xanh th&acirc;́p hơn đáng k&ecirc;̉. Các con s&ocirc;́ này mới tính đ&ecirc;́n các y&ecirc;́u t&ocirc;́ của hai tài khoản môi trường là tài khoản tài nguyên năng lượng và tài khoản phát thải khí (CO2), nghĩa là nó không bao g&ocirc;̀m &ldquo;mọi thứ&rdquo;. Do đó, trong tương lai c&acirc;̀n hoàn thiện chúng.</p> <p> <strong>Thực trạng ở một s&ocirc;́ nước trên th&ecirc;́ giới</strong></p> <p> <strong><em>Trung Qu&ocirc;́c </em></strong><strong><em>. </em></strong>Khác với Việt Nam, Trung Qu&ocirc;́c có cách tính EDP và GDP xanh khác nhau (Ví dụ năm 1992 &ndash; 1995). EDP của Trung Qu&ocirc;́c năm 1992 và 1995 l&acirc;̀n lượt là 2180.9888379 nhân dân tệ và 4965.294554 nhân dân tệ, trong khi GDP xanh l&acirc;̀n lượt là 2517.622505 và 5724.869372 nhân dân tệ &nbsp;(Ming L, 2017).</p> <p> <strong><em>Indonesia</em></strong>. Một trong những công trình nghiên cứu đ&acirc;̀u tiên là ở Indonesia do Viện Tài nguyên Th&ecirc;́ giới (World Resources Institue &ndash; WRI) thực hiện (Repetto và các đ&ocirc;̀ng tác giải khác 1989). Các tác giả sử dụng s&ocirc;́ liệu tài nguyên thiên nhiên của Indonesia đ&ecirc;̉ ước tính GDP và EDP. Bảng 4 dưới đây cho bi&ecirc;́t những k&ecirc;́t quả có được bởi các tác giả, ở đó EDP là GDP trừ đi sự cạn kiệt của 3 tài nguyên đã được xem xét. Tỷ lệ tăng trưởng hằng năm trung bình là 7,1% cho GDP và 4,1% cho EDP, EDP tăng trưởng chậm hơn GDP. Cột thứ tư th&ecirc;̉ hiện tỷ lệ giữa EDP và GDP. Kh&acirc;́u hao cơ bản chi&ecirc;́m một ph&acirc;̀n đáng k&ecirc;̉ của GDP. Theo như k&ecirc;́t quả phân tích, EDP thưởng th&acirc;́p hơn GDP khoảng 20%.</p> <p> <strong>Austrlia</strong>. Bên cạnh đó, Young (1990) đã đưa ra một áp dụng tương tự cho Australia với những k&ecirc;́t quả tương tự được th&ecirc;̉ hiện ở bảng 2 (Tr&acirc;̀n Thị Lệ Anh, 2010). Ông đánh giá t&acirc;́t cả các ngu&ocirc;̀n tài nguyên khoáng sản theo cách của Repetto đánh giá với d&acirc;̀u mỏ và xem xét tới sự cạn kiệt của tài nguyên này dựa trên một dự đoán v&ecirc;̀ sự liên quan chặt chẽ của nó với thiệt hại môi trường s&ocirc;́ng.</p> <p> GDP và EDP1 tương tự nhau. EDP2 &ocirc;̉n định theo thời gian, do ảnh hưởng của sự thay đ&ocirc;̉i giá cả thị trường và những phát hiện mới. Ti&ecirc;́p theo là tỷ lệ tăng trưởng trung bình của EDP2 trên thực t&ecirc;́ lớn hơn so với GDP, năm 1980 EDP2/GDP là 0.84 năm 1998 là 0.97.</p> <p> <strong><em>Thụy Đi&ecirc;̉n</em></strong><strong><em>. </em></strong>Một n&ocirc;̃ lực g&acirc;̀n đây đ&ecirc;̉ tính EDP của Thụy Đi&ecirc;̉n cho th&acirc;́y t&acirc;̀m nhìn rộng lớn hơn của các loại tài nguyên thiên nhiên, bao g&ocirc;̀m xói mòn đ&acirc;́t, khả năng tái tạo, quặng kim lọại và ch&acirc;́t lượng nước. K&ecirc;́t quả cho th&acirc;́y EDP ở Thụy Đi&ecirc;̉n th&acirc;́p hơn 1-2% NDP năm 1993 và 1997 (Skånberg K., 2001). Tác giả của phân tích này cũng lưu ý rằng trong việc đi&ecirc;̀u chỉnh t&ocirc;̉ng th&ecirc;̉ đã không xét đ&ecirc;́n t&acirc;́t cả rủi ro môi trường thiệt hại, ví dụ như bi&ecirc;́n đ&ocirc;̉i khí hậu và m&acirc;́t đa dạng sinh học. Tại Thụy Đi&ecirc;̉n, quy&ecirc;̀n sử dụng đ&acirc;́t của con người ảnh hưởng đ&ecirc;́n ch&acirc;́t lượng môi trường hệ sinh thái không chỉ là câu hỏi cho chủ sở hữu đ&acirc;́t mà còn là v&acirc;́n đ&ecirc;̀ của cả cộng đ&ocirc;̀ng.</p> <p> Các dữ liệu được đánh giá trong EDP không bao g&ocirc;̀m t&acirc;́t cả các tác động môi trường gây ra bởi các hoạt động kinh t&ecirc;́. Các v&acirc;́n đ&ecirc;̀ môi trường mà một đ&acirc;́t nước phải đ&ocirc;́i mặt, các dữ liệu sẵn có, mục đích hay các cách sử dụng phương pháp đã được xây dựng sẵn là những y&ecirc;́u t&ocirc;́ quan trọng c&acirc;̀n xem xét khi thi&ecirc;́t k&ecirc;́ môi trường vĩ mô. Các nước đang phát tri&ecirc;̉n có th&ecirc;̉ sẽ tập trung hơn vào cạn kiệt tài nguyên và sự m&acirc;́t đ&acirc;́t (thay đ&ocirc;̉i quy&ecirc;̀n sử dụng đ&acirc;́t) hơn là tập trung vào các tác động của khí thải, vì các tác động kinh t&ecirc;́ sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.</p> <p> <strong>Thuận lợi, khó khăn và khẳ năng đạt được mục tiêu v&ecirc;̀ chỉ s&ocirc;́ đ&ocirc;́i với Việt Nam trong tương lai</strong></p> <p> <strong><em>Khả năng xây dựng chỉ s&ocirc;́ này tại Việt Nam</em></strong></p> <p> Việc áp dụng tính toán các chỉ s&ocirc;́ kinh t&ecirc;́ hay phát tri&ecirc;̉n b&ecirc;̀n vững có liên quan đ&ecirc;́n y&ecirc;́u t&ocirc;́ &ldquo;xanh&rdquo; thường r&acirc;́t phức tạp và gặp nhi&ecirc;̀u khó khăn tại nhi&ecirc;̀u qu&ocirc;́c gia. Cho đ&ecirc;́n nay, h&acirc;̀u h&ecirc;́t các qu&ocirc;́c gia đ&ecirc;̀u không liệt kê được h&ecirc;́t các tài khoản xanh trong việc thực hiện đánh giá các chỉ s&ocirc;́ phát tri&ecirc;̉n b&ecirc;̀n vững của họ mà chỉ xem xét đ&ecirc;́n một vài y&ecirc;́u t&ocirc;́ (các y&ecirc;́u t&ocirc;́ được xây dựng theo tiêu chu&acirc;̉n hoạch toán của SEEA*), đóng vai trò quan trọng trong n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ của nước này. Bên cạnh đó, việc xây dựng và đánh giá các chỉ s&ocirc;́ xanh như EDP, GDP xanh hiện nay trên th&ecirc;́ giới mới chỉ mang tính tự nguyện, tùy thuộc vào nhu c&acirc;̀u của m&ocirc;̃i nước chứ không mang tính ch&acirc;́t bắt buộc hay dựa trên b&acirc;́t kì một th&ecirc;̉ ch&ecirc;́ nào. Chính vì vậy mà một s&ocirc;́ chỉ s&ocirc;́ chỉ được thực hiện tại một vài qu&ocirc;́c gia chứ không được ph&ocirc;̉ bi&ecirc;́n trên th&ecirc;́ giới. Trung Qu&ocirc;́c, qu&ocirc;́c gia láng gi&ecirc;̀ng của Việt Nam là một trong những qu&ocirc;́c gia đã xây dựng và tính toán thành công chỉ s&ocirc;́ EDP hay GDP xanh tại nước này. Với nhi&ecirc;̀u đặc đi&ecirc;̉m kinh t&ecirc;́, xã hội tương tự Trung Qu&ocirc;́c, Việt Nam cũng có th&ecirc;̉ học hỏi kinh nghiệm nhằm xây dựng một chỉ s&ocirc;́ xanh phù hợp giúp phục vụ hình thành hướng đi chính sách tương lai cho Việt Nam.</p> <p> Trước mắt, việc xây dựng một bộ chỉ s&ocirc;́ xanh cho Việt Nam như GDP xanh hay EDP sẽ gặp phải những thách thức tương tự như Trung Qu&ocirc;́c hay một s&ocirc;́ qu&ocirc;́c gia khác.</p> <p> Thứ nh&acirc;́t, tại nước ta, việc hoạch toán môi trường là công việc còn khá mới, do đó, việc đưa chỉ s&ocirc;́ xanh vào thực ti&ecirc;̃n Việt Nam c&acirc;̀n có sự chu&acirc;̉n bị kĩ lưỡng v&ecirc;̀ khuôn kh&ocirc;̉ phương pháp, thông tin, nhân lực cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó, chúng ta cũng c&acirc;̀n dựa trên những thông s&ocirc;́ và kinh nghiệm của các nước đi trước. Thứ hai, h&acirc;̀u h&ecirc;́t các tài khoản xanh không hoạch toán các chi phí môi trường hay đo lường đ&acirc;̀y đủ các đóng góp của môi trường. Vào năm 2010, Việt Nam mới bắt đ&acirc;̀u đặt ra các mức ưu tiên cho các tài khoản xanh k&ecirc;́t hợp với các tài khoản kinh t&ecirc;́. Riêng với chỉ s&ocirc;́ GDP xanh tại Việt Nam nằm trong hạng mục chỉ tiêu ưu tiên nhóm B trong năm 2010, tức là 3 năm sau đó mới bắt đ&acirc;̀u thực hiện và đánh giá chỉ s&ocirc;́. Tuy nhiên tại thời đi&ecirc;̉m hiện tại, ta mới bắt đ&acirc;̀u quá trình tính toán chỉ s&ocirc;́ này. Một s&ocirc;́ chuyên gia đưa ra nhận định, hiện nay, khung xây dựng chỉ s&ocirc;́ còn nhi&ecirc;̀u khoảng tr&ocirc;́ng dữ liệu và những khó khăn trong biên soạn các tài khoản môi trường, cụ th&ecirc;̉ như v&acirc;̃n t&ocirc;̀n tại khoảng tr&ocirc;́ng giữa tính toán GDP từ bên cung và bên c&acirc;̀u, chưa có ngành th&ecirc;̉ hiện chi phí v&ecirc;̀ tái sử dụng ch&acirc;́t thải, thi&ecirc;́u ma trận hệ s&ocirc;́ ch&acirc;́t thải trực ti&ecirc;́p và trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, thi&ecirc;́u hệ s&ocirc;́ chi phí theo các loại ch&acirc;́t thải.</p> <p> <strong><em>Khả năng đạt được mục tiêu chỉ s&ocirc;́ này tại Việt Nam</em></strong></p> <p> <em>Thuận lợi</em><em>.</em>Việt Nam đã bước đ&acirc;̀u thực phát tri&ecirc;̉n công nghiệp xanh với việc tham gia ký k&ecirc;́t Tuyên b&ocirc;́ Manila v&ecirc;̀ công nghiệp xanh tại châu Á vào ngày 9/9/2009. Những năm g&acirc;̀n đây, Việt Nam đã ban hành và thực hiện khung chính sách theo hướng xanh hóa các ngành công nghiệp hiện hữu, thực hiện các chương trình như: Chương trình phát tri&ecirc;̉n nhiên liệu sinh học; Chương trình sản xu&acirc;́t sạch hơn trong công nghiệp; Chương trình phát tri&ecirc;̉n ngành công nghiệp môi trường tới năm 2025... và thực hiện sửa đ&ocirc;̉i, b&ocirc;̉ sung Luật Bảo vệ môi trường, ban hành Luật Sử dụng năng lượng ti&ecirc;́t kiệm và hiệu quả...</p> <p> Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã nghiên cứu và thử nghiệm một s&ocirc;́ mô hình năng lượng xanh, sử dụng nhiên liệu sinh học thay th&ecirc;́ một ph&acirc;̀n xăng d&acirc;̀u, ti&ecirc;́n tới xây dựng ngành xăng d&acirc;̀u sạch... Quá trình xanh hóa n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ đã được khởi động, nhưng đây là một quá trình lâu dài, đặt ra nhi&ecirc;̀u cơ hội cũng như thách thức.</p> <p> Các k&ecirc;́t quả khảo sát cho th&acirc;́y, ti&ecirc;̀m năng ti&ecirc;́t kiệm năng lượng ở Việt Nam còn r&acirc;́t lớn, chẳng hạn ngành công nghiệp xi măng có th&ecirc;̉ giảm tiêu thụ năng lượng 50%, công nghiệp g&ocirc;́m giảm 35%, ngành dệt may giảm 30%, công nghiệp thép 20%, ch&ecirc;́ bi&ecirc;́n thực ph&acirc;̉m 20%... Mục tiêu của Việt Nam là cắt giảm 5 - 8% t&ocirc;̉ng mức tiêu thụ năng lượng của cả nước trong 3 năm tới.</p> <p> <em>Khó khăn</em><em>. </em>Quan đi&ecirc;̉m phát tri&ecirc;̉n b&ecirc;̀n vững của Việt Nam đã được nêu rõ trong Chi&ecirc;́n lược phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́-xã hội 2021-2030 là &quot;Phát tri&ecirc;̉n nhanh, hiệu quả và b&ecirc;̀n vững, tăng trưởng kinh t&ecirc;́ đi đôi với thực hiện ti&ecirc;́n bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường&quot; và &quot;Phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học&quot;. Th&ecirc;́ nhưng, cho đ&ecirc;́n nay, khi Việt Nam đã đi hơn 4/5 chặng đường của chi&ecirc;́n lược 10 năm thì v&acirc;́n đ&ecirc;̀ môi trường ở Việt Nam đang ngày càng trở nên gay gắt. B&acirc;́t bình đẳng giữa các t&acirc;̀ng lớp dân cư và giữa các vùng mi&ecirc;̀n v&acirc;̃n ti&ecirc;́p tục tăng, hiệu quả đ&acirc;̀u tư giảm, t&ocirc;́c độ tăng trưởng kinh t&ecirc;́ có xu hướng chững lại và giảm mạnh, tính b&acirc;́t &ocirc;̉n của n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ tăng, và các v&acirc;́n đ&ecirc;̀ xã hội ngày càng trở nên bức thi&ecirc;́t.</p> <p> Trước h&ecirc;́t, v&ecirc;̀ nhận thức, hi&ecirc;̉u th&ecirc;́ nào là một n&ecirc;̀n &ldquo;Kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo; hiện nay ở Việt nam v&acirc;̃n còn h&ecirc;́t sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và ph&ocirc;̉ bi&ecirc;́n rộng rãi ki&ecirc;́n thức trong t&acirc;̀ng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. N&ecirc;́u không nhận thức đ&acirc;̀y đủ, tính đ&ocirc;̀ng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.</p> <p> Thứ hai, v&ecirc;̀ cách thức ti&ecirc;́n hành, so với n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ truy&ecirc;̀n th&ocirc;́ng-&ldquo;N&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ nâu&rdquo;, xây dựng mô hình mới-&ldquo;N&ecirc;̀n Kinh t&ecirc;́ Xanh&rdquo;, thay đ&ocirc;̉i mô hình tăng trưởng, cơ c&acirc;́u lại n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ có sự khác biệt như th&ecirc;́ nào và bắt đ&acirc;̀u từ đâu trong b&ocirc;́i cảnh phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́ Việt nam hiện nay.</p> <p> Thứ ba, n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cac bon th&acirc;́p, tăng trưởng xanh, đ&acirc;̀u tư khôi phục hệ sinh thái, giải quy&ecirc;́t sinh k&ecirc;́ gắn với phục h&ocirc;̀i môi trường.... Thực t&ecirc;́ công nghệ sản xu&acirc;́t ở Việt nam hiện nay so với th&ecirc;́ giới ph&acirc;̀n lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đ&ocirc;̉i công nghệ mới phù hợp với n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh là thách thức không nhỏ n&ecirc;́u không có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên th&ecirc;́ giới. Nhi&ecirc;̀u vùng nông thôn và khu vực mi&ecirc;̀n núi, sinh k&ecirc;́ người dân còn gặp nhi&ecirc;̀u khó khăn.</p> <p> Thứ tư, v&ecirc;̀ huy động ngu&ocirc;̀n v&ocirc;́n cho thực hiện mục tiêu &ldquo;Xây dựng n&ecirc;̀n kinh xanh&rdquo;, mặc dù Việt nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ qu&ocirc;́c gia so với các nước đã phát tri&ecirc;̉n còn quá th&acirc;́p, đi&ecirc;̀u này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tri&ecirc;̉n khai hướng tới &ldquo;N&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo;.</p> <p> Thứ năm, cơ ch&ecirc;́ chính sách hướng tới thực hiện &ldquo;N&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo; ở Việt nam hiện nay g&acirc;̀n như chưa có, trong khi trên th&ecirc;́ giới cũng mới đ&ecirc;̀ xu&acirc;́t hướng ti&ecirc;́p cận. Việc rà soát lại cơ ch&ecirc;́ chính sách liên quan và sửa đ&ocirc;̉i b&ocirc;̉ sung cho phù hợp với mô hình phát tri&ecirc;̉n mới theo hướng cơ c&acirc;́u lại ngành kinh t&ecirc;́ và hướng tới n&ecirc;̀n &ldquo;Kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo; là thách thức không nhỏ.</p> <p> <strong>Định hướng ph&aacute;t triển</strong></p> <p> Thứ nh&acirc;́t, cơ ch&ecirc;́ chính sách c&acirc;̀n tập trung vào tạo đi&ecirc;̀u kiện thuận lợi cho đ&ocirc;̉i mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ c&acirc;́u lại ngành ngh&ecirc;̀, ưu tiên phát tri&ecirc;̉n các ngành có công nghệ cao, phát thải các bon th&acirc;́p; công nghệ thân thiện môi trường; sử dụng ti&ecirc;́t kiệm năng lượng và tài nguyên; không gây ô nhi&ecirc;̃m môi trường; phục h&ocirc;̀i tài nguyên và hệ sinh thái.</p> <p> Thứ hai, v&ecirc;̀ nhận thức, tập trung tuyên truy&ecirc;̀n, giáo dục định hướng thay đ&ocirc;̉i nhận thức trước đây của xã hội từ n&ecirc;̀n &ldquo;kinh t&ecirc;́ nâu&rdquo; (n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ chỉ chú trọng nhi&ecirc;̀u tới tăng trưởng kinh t&ecirc;́ mà giảm nhẹ bảo vệ môi trường) sang n&ecirc;̀n &ldquo;kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo; đ&ecirc;̉ tạo ra một sự đ&ocirc;̀ng thuận cao trong xã hội từ lãnh đạo đ&ecirc;́n người dân và doanh nghiệp, từ đó thay đ&ocirc;̉i quan niệm và nhận thức v&ecirc;̀ một &ldquo;n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo;. Trong hệ th&ocirc;́ng giáo dục chuyên nghiệp, đ&ocirc;̉i mới giáo trình, bài giảng theo hướng ti&ecirc;́p cận &ldquo;n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo;.</p> <p> Thứ ba, đ&acirc;̀u tư cho phát tri&ecirc;̉n khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành ngh&ecirc;̀ trong nội hàm của &ldquo;n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo; như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xu&acirc;́t ti&ecirc;́t kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng; định hướng lại đ&acirc;̀u tư, hướng tới mức đ&acirc;̀u tư khoảng 2% t&ocirc;̉ng chi ngân sách hàng năm cho khôi phục hệ sinh thái và bảo vệ môi trường...</p> <p> Thứ tư, đ&ocirc;̉i mới quy hoạch sử dụng đ&acirc;́t cho phát tri&ecirc;̉n đô thị, phát tri&ecirc;̉n giao thông, khu công nghiệp, khu ch&ecirc;́ xu&acirc;́t, các công trình phúc lợi xã hội theo hướng dành quỹ đ&acirc;́t đủ cho phát tri&ecirc;̉n cây xanh, h&ocirc;̀ nước và các công trình hạ t&acirc;̀ng kỹ thuật môi trường theo quy chu&acirc;̉n qu&ocirc;́c t&ecirc;́.</p> <p> Thứ năm, cải cách lại hệ th&ocirc;́ng thu&ecirc;́ tài nguyên và xem xét lại thu&ecirc;́ môi trường hướng tới phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́ xanh được đi&ecirc;̀u chỉnh thông qua công cụ kinh t&ecirc;́ và cơ ch&ecirc;́ tài chính, thu&ecirc;́ khóa nhằm khuy&ecirc;́n khích ti&ecirc;́t kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nh&acirc;́t là tài nguyên quý hi&ecirc;́m, bảo vệ môi trường, duy trì và phát tri&ecirc;̉n hệ sinh thái tự nhiên.</p> <p> Thứ sáu, đ&ocirc;̉i mới chỉ tiêu kinh t&ecirc;́ vĩ mô, xem xét lại và hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải ti&ecirc;́n hệ th&ocirc;́ng SNA phản ánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán cân đ&ocirc;́i tài khoản qu&ocirc;́c gia...</p> <p> Thứ bảy, rà soát lại cơ ch&ecirc;́ chính sách liên quan đ&ecirc;́n dịch vụ hệ sinh thái và đ&acirc;̀u tư cho phát tri&ecirc;̉n thời gian qua, gắn phát tri&ecirc;̉n rừng với xóa đói giảm nghèo, những ưu th&ecirc;́ của công cụ kinh t&ecirc;́ liên quan đ&ecirc;́n chi trả dịch vụ môi trường rừng, b&ocirc;̉ sung và hoàn thiện công cụ này tri&ecirc;̉n khai trong cả nước, sau đó ti&ecirc;́p tục cho các hệ sinh thái đ&acirc;́t ngập nước, sinh thái bi&ecirc;̉n, san hô...</p> <p> Thứ tám, dựa vào tiêu chí qu&ocirc;́c t&ecirc;́ như đã dự tính của UNEP, đ&acirc;̀u tư công toàn c&acirc;̀u 2% GDP cho phát tri&ecirc;̉n kinh t&ecirc;́ xanh, t&ocirc;̉ng k&ecirc;́t thời gian vừa qua mức độ đ&acirc;̀u tư cho môi trường ở Việt Nam còn thi&ecirc;́u hụt bao nhiêu đ&ecirc;̉ b&ocirc;̉ sung và phù hợp với tiêu chu&acirc;̉n qu&ocirc;́c t&ecirc;́.</p> <p> Thứ chín, tích cực hợp tác qu&ocirc;́c t&ecirc;́ trong n&ocirc;̃ lực xây dựng &ldquo;n&ecirc;̀n kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo; ở Việt Nam, huy động các ngu&ocirc;̀n lực h&ocirc;̃ trợ của qu&ocirc;́c t&ecirc;́, nh&acirc;́t là ngu&ocirc;̀n v&ocirc;́n đ&acirc;̀u tư 2% GDP toàn c&acirc;̀u cho phát tri&ecirc;̉n &ldquo;kinh t&ecirc;́ xanh&rdquo;, các cơ ch&ecirc;́ tài chính khác cho phát tri&ecirc;̉n rừng.</p> <p> <em>T&oacute;m</em><em>lại,</em>Việc tính toán các chỉ s&ocirc;́ xanh đang là một trong những xu hướng của các nước phát tri&ecirc;̉n trên th&ecirc;́ giới. Việc k&ecirc;́t hợp y&ecirc;́u t&ocirc;́ môi trường trong cán cân kinh t&ecirc;́ - xã hội nhằm giúp các qu&ocirc;́c gia phát tri&ecirc;̉n một cách b&ecirc;̀n vững. Các chỉ s&ocirc;́ này không chỉ nhằm giúp đánh giá mức độ &ldquo;xanh&rdquo; của một nước mà còn giúp h&ocirc;̃ trợ nước đó trong việc hoạch định các chính sách phát tri&ecirc;̉n b&ecirc;̀n vững c&acirc;̀n thi&ecirc;́t. M&ocirc;̃i chỉ s&ocirc;́ mang một t&acirc;̀m quan trọng và đặc trưng riêng, phù hợp với xu th&ecirc;́ và nhu c&acirc;̀u phát tri&ecirc;̉n xanh của m&ocirc;̃i qu&ocirc;́c gia. Dó đó, c&acirc;̀n có sự lựa chọn và xây dựng những chỉ s&ocirc;́ xanh phù hợp với tình hình kinh t&ecirc;́ trong nước và trong m&ocirc;́i quan hệ với tự nhiên.</p> <p> Việt Nam là một qu&ocirc;́c gia non trẻ trong việc xây dựng các chỉ s&ocirc;́ xanh như GDP xanh hay EDP. Tuy nhiên, đây lại là những chìa khóa c&acirc;̀n thi&ecirc;́t cho cánh cửa chính sách c&acirc;̀n được mở ra cho Việt Nam trong tương lai. Việt Nam c&acirc;̀n có cơ ch&ecirc;́ chính sách phù hợp, c&acirc;̀n sự đào tạo ngu&ocirc;̀n nhân lực c&acirc;̀n thi&ecirc;́t đ&ecirc;̉ phục vụ cho việc xây dựng các chỉ s&ocirc;́ xanh này.</p> <p> &nbsp;</p> <p> <strong>T&agrave;i liệu tham khảo:</strong></p> <p> Tr&acirc;̀nThịLệAnh,2010.Đánhgiávàdựbáom&ocirc;́itươngquangiữatăng trưởng kinh t&ecirc;́ và ô nhi&ecirc;̃m môi trường tại vùng kinh t&ecirc;́ trọng đi&ecirc;̉m Bắc Bộ, Báo cáo t&ocirc;̉ng k&ecirc;́t khoa học, Bộ Tài nguyên và Môi trường, T&ocirc;̉ng cục Môi trường.</p> <p> Bộ Thương mại Hoa Kỳ, National Income, Supplement to the Survey of Current Business, tháng 7 năm 1947 (Washington, DC: GPO, 1947), 11.</p> <p> Vũ Xuân Nguyệt H&ocirc;̀ng, Nguy&ecirc;̃n Mạnh Hải, Bùi Trinh, H&ocirc;̀ Công Hòa, Nguy&ecirc;̃n Việt Phong, Dương Mạnh Hùng, 2012. Báo cáo cu&ocirc;́i cùng &ldquo;Chỉ s&ocirc;́ GDP xanh: Nghiên cứu Phát tri&ecirc;̉n Khung Phương pháp&rdquo;, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh t&ecirc;́ Trung ương (CIEM)</p> <p> Hanley N., 2000. Macroeconomic measures of &ldquo;Sustainability&rdquo;, Journal of economic surveys.</p> <p> Ming L., 2007. Green Accounting of China: Comparison Analysis between 1992 and 1995. Canadian Social Science.</p> <p> Skånberg K., 2001. Constructing a partially environmentally adjusted net domestic product for Sweden 1993 and 1997.</p> <p> http://vjol.info/index.php/econst/article/viewFile/10153/9302</p> <p> http://vienthongke.vn/thong-tin-khoa-hoc/chuyen-san/188-nam-2001-cs-45-nam-thanh-lap-khoa-thong-ke-dh-ktqd/1183-mot-vai-suy-nghi- ve-chi-tieu-gdp-xanh</p> <p> http://www.eolss.net/Sample-Chapters/C13/E1-21-03-04.pdf</p> <p> &nbsp;</p> <p> &nbsp;</p>