0236.3650403 (128)

Vướng mắc trong Bảo hiểm Nông nghiệp ở Việt Nam


Rất nhiều chuyên gia kinh tế - tài chính khẳng định BHNN theo mô hình truyền thống không bền vững bởi các tổ chức nông dân chưa quan tâm đến BHNN, dẫn đến chưa đủ số lượng khách hàng cần thiết; các nhà tái bảo hiểm từ chối nhận các rủi ro về nông nghiệp vì thiếu thông tin thực tế đầy đủ tại Việt Nam (thống kê, điều tra rủi ro tổng quát toàn thị trường, tiềm năng thực tế so với mức độ rủi ro, tổn thất ở Việt Nam)…

Tại Việt Nam, thời gian qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) được coi là ngân hàng chủ chốt cho hàng triệu hộ nông dân vay, song việc cho vay vốn không phân biệt những rủi ro mà người nông dân có thể gặp phải. Do đó, khi gặp thiên tai, thảm họa thì Agribank thường phải khoanh nợ, xóa nợ cho những hộ nông dân bị thiệt hại quá nợ.

Thực tế thì Agribank đã hoạt động như một nhà bảo hiểm nông nghiệp, nhưng chi phí chịu rủi ro lại lấy từ nguồn tiền của Chính phủ, thay vì do nông dân đóng. Điều này đã không tạo ra động lực để các hộ dân ứng xử chủ động và có kế hoạch đối với những rủi ro mà họ có thể gặp phải trong tương lai.Tuy nhiên, với việc chuyển dần sang mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại thì Agribank đã bắt đầu giảm những khoản vay như vậy, và người nông dân gánh chịu những chi phí rủi ro nhiều hơn.

Phân tích các phân đoạn thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam, TS. Jason Hartell cho rằng có 3 đối tượng chính là hộ nông dân nghèo, hộ nông dân nhỏ lẻ, hộ sản xuất lớn, với những nhu cầu bảo hiểm khác nhau.

Hiện các nước đang phát triển thường áp dụng loại hình bảo hiểm cây trồng dựa trên sản lượng thực tế cũng như những thiệt hại cụ thể trong những rủi ro mang tính thảm họa hay có tính đặc thù của từng địa phương. Hạn chế của loại hình này là chỉ những hộ có khả năng chịu rủi ro cao nhất mới mua, thiếu cơ sở dữ liệu để định giá đúng rủi ro, chi phí quản lý và kiểm soát cao...

Thực tế những năm 90 của thế kỷ trước, Tập đoàn Bảo Việt đã thực hiện việc bảo hiểm cây trồng đa hiểm họa và đã phải tạm dừng do chi phí quá lớn.

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chính phủ thường hỗ trợ những khoản tiền lớn giúp nông dân đóng phí bảo hiểm để không phải chịu những rủi ro lớn.

Thống kê của một số nước như Nhật, Mỹ, Brazil... cho thấy tổng chi phí bồi thường và quản lý thường cao gấp 2-5 lần tiền phí bảo hiểm, trong khi về dài hạn phí bảo hiểm phải lớn hơn tổng số tiền bồi thường và chi phí quản lý. Đây cũng chính là vấn đề mà các công ty bảo hiểm gặp phải khi phát triển những sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp mang tính đặc thù của Việt Nam.

 

Th.S Mai Xuân Bình – Khoa QTKD